Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 54/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUN NGÔ QUYỀN, THÀNH PH HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 54/2024/HS-ST NGÀY 12/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12 tháng 3 năm 2024, tại điểm cầu trung tâm - Trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng và điểm cầu thành phần - Trại tạm giam Công an thành phố H; Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền tiến hành xét xử sơ thẩm công khai theo hình thức trực tuyến vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 42/2024/TLST-HS ngày 01 tháng 02 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 132/2024/QĐXXST-HS, ngày 27 tháng 02 năm 2024, đối với bị cáo:

Trương Văn T, sinh ngày 23 tháng 4 năm 1973, tại Hải Phòng; nơi cư trú: số A U đường Đ, phường C, quận N, thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T1 (đã chết) và bà Lê Thị T2; có vợ là Trịnh Thị H sinh năm 1980, có 01 con sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Tại Bản án số 05/HSST ngày 23/01/2002, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền xử phạt 42 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, chấp hành hình phạt tù đến ngày 31/8/2004 được đặc xá về địa phương, nộp xong 50.000 đồng án phí ngày 23/01/2002 (đã được xóa án tích); bị tạm giữ từ ngày 30/10/2023, đến ngày 04/11/2023 chuyển tạm giam; có mặt.

- Người tiến hành t tụng tại điểm cầu thành phần: Ông Vũ Trọng K - Thư ký Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chiều ngày 29/10/2023, Trương Văn T đến khu vực đường T, phường M, quận N, Hải Phòng mua của người đàn ông không quen biết 200.000 đồng ma túy đá được 01 gói nilon kích thước 1cm x 1cm, T cất giữ gói ma túy để sử dụng. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, T gọi điện rủ Nguyễn Thị Kim L (sinh năm 1987, trú tại số C Đà Nẵng, phường C, quận N, Hải Phòng) sử dụng ma túy đá với T, L đồng ý. T bảo L ra khu vực bò mương c, rồi T đến đón L đi đến nhà nghỉ I (địa chỉ: Tổ B, phường Đ, quận N, Hải Phòng). Tại đây, T vào thuê của bà Đinh Thị Hoa L1 (sinh năm 1967, là chủ nhà nghỉ) 01 phòng số 102 của nhà nghỉ với giá 150.000 đồng/ 1 đêm, T còn mua 01 chai nước lọc và hẹn khi nào trả phòng thì trả tiền một thể. Thuê được phòng nghỉ, T đưa L vào phòng uống hết chai nước rồi T đục 02 lỗ trên nắp chai để làm dụng cụ sử dụng ma túy. T bỏ gói ma túy đá, tẩu thủy tinh, bật lửa gas ra để trên giường và lấy tờ lịch trong phòng cuộn thành ống hút. T nắp ống hút vào chai nhựa và tẩu thủy tinh tạo thành bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, T bóc gói ma túy đá ra đổ hết ma túy đá vào tẩu thủy tinh rồi dùng bật lửa đốt hơ cho ma túy đá cháy thành khói rồi mời L sử dụng. L ngậm ống hút hít khói ma túy vào cơ thể xong thì đến lượt T tự sử dụng hít gần hết số ma túy vào cơ thể. Đến khoảng 01 giờ ngày 30/10/2023, thì tổ công tác của Công an quận N vào bắt quả tang, thu giữ: 01 vỏ gói nilon kích thước 1cm x 1cm bên trong còn bám dính tinh thể màu trắng (mẫu số 1); 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá, gồm: 01 chai nhựa nắp chai đục 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút, một lỗ cắm với tẩu thủy tinh, bên trong tẩu còn bán dính tạp chất màu nâu đen (mẫu số 2); 01 bật lửa gas; 01 điện thoại di động S đã qua sử dụng; 01 xe mô tô nhăn hiệu Taurus biển kiểm soát 16P6-X và giấy đăng ký xe.

Khám xét khẩn cấp tại phòng nghỉ T thuê, ngoài những đồ vật bị thu giữ của T không phát hiện đồ vật, tài liệu gì khác liên quan đến ma túy.

Tại Kết luận giám định số 863/KL-KTHS ngày 03/11/2023 của Phòng K1 Công an thành phố H, kết luận: Tinh thể màu trắng bám dính của mẫu số 1 gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, không đủ điều kiện cân xác định khối lượng ma túy bám dính; Tạp chất màu nâu đen bám dính trong tẩu thủy tinh của mẫu số 2 gửi giám định tìm thấy chất ma túy, loại Methamphetamine, không đủ điều kiện xác định khối lượng ma túy.

Kết quả xét nghiệm chất ma túy trong nước tiểu: Trương Văn T dương tính với ma túy M và Heroine/ M1 (T khai trước đó có sử dụng Heroine); Nguyễn Thị Kim L dương tính với ma túy Methamphetamine.

Tại Cơ quan điều tra, Trương Văn T, Nguyễn Thị Kim L2 đều khai nhận hành vi sử dụng trái phép chất ma túy như nội dung nêu trên.

Ngoài ra, Trương Văn T còn khai đây là lần đầu T rủ L đi sử dụng ma túy. Ma túy đá, dụng cụ sử dụng ma túy là của T chuẩn bị từ trước, T bỏ tiền mua ma túy, tiền thuê phòng nghỉ để mời L sử dụng ma túy, L không phải đóng góp gì. Khi thuê phòng nghỉ T không nói cho chủ nhà nghỉ 999 biết việc T và L sẽ sử dụng ma túy trong phòng. T không biết lai lịch, địa chỉ của người đàn ông bán ma túy cho T vào chiều ngày 29/10/2023. Xe mô tô biển kiểm soát 16P6-X là của T mua với giá 7.500.000 đồng ở cửa hàng bán xe cũ từ năm 2017 (T không nhớ địa chỉ) để sử dụng làm nghề xe ôm.

Nguyễn Thị Kim L khai không nghiện ma túy. Đêm ngày 29/10/2023, L được Trương Văn T rủ đi sử dụng ma túy đá, L không phải đóng góp gì và không bàn bạc gì với T về việc sử dụng ma túy tại phòng 102 nhà nghỉ I.

Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ: 01 bì giấy dấu niêm phong số 863MT/PC09 có chữ ký của những người có liên quan, chứa vỏ túi nilon của mẫu số 1, tẩu thủy tinh của mẫu số 2 sau khi xử lý mẫu giám định; 01 chai nhựa nắp chai đục 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút; 01 bật lửa gas; 01 điện thoại di động S đã qua sử dụng;

Đối với 01 xe mô tô nhăn hiệu YAMAHA, loại Taurus, biển kiểm soát 16P6- X và giấy đăng ký xe. Kết quả xác minh xe mô tô biển kiểm soát 16P6-X, đăng ký mang tên Nguyễn Văn H1, địa chỉ số E C, phường Q, quận H, Hải Phòng. Giám định số khung: RLCS16S109Y036244; số máy: 16S1-036246 xe là số nguyên thủy của nhà sản xuất đóng, không bị tẩy xóa. Tra cứu xe không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng. Bà Trần Thị Bình S năm 1957, hiện trú tại số D Chợ Đ, phường N, quận L, Hải Phòng (là vợ của ông Nguyễn Văn H1) cho biết: Thời điểm ông H1 mua và đăng ký xe mô tô trên, ông H1 và bà B trú tại địa chỉ số E C, phường Q, quận H, Hải Phòng. Ông H1 sử dụng xe được một thời gian thì bán cho người không quen biết. Sau đó, ông H1 và bà B chuyển về ở với con trai tại địa chỉ hiện nay. Chuyển toàn bộ vật chứng trên đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền bảo quản chờ xử lý.

Tại Bản Cáo trạng số 46/CT-VKS ngày 29 tháng 01 năm 2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng đã truy tố bị cáo Trương Văn T phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, theo quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Trương Văn T khai nhận toàn bộ nội dung vụ án như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng tại phiên toà vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Trương Văn T và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 255; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Trương Văn T với mức án từ 36 đến 42 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; không đề nghị hình phạt bổ sung do bị cáo không có công việc và thu nhập ổn định.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy dấu niêm phong số 863MT/PC09 có chữ ký của những người có liên quan, chứa vỏ túi nilon của mẫu số 1, tẩu thủy tinh của mẫu số 2 sau khi xử lý mẫu giám định; 01 chai nhựa nắp chai đục 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút; 01 bật lửa gas.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động S đã qua sử dụng là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội;

- Trả lại cho bị cáo 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Taurus, biển kiểm soát 16P6-X và giấy đăng ký xe.

Về án phí: Bị cáo Trương Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Sau khi đại diện Viện Kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận, bị cáo thành khẩn khai nhận tội và tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở lại xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến và khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.

- Về tội danh [2] Lời khai của bị cáo Trương Văn T tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Khoảng đêm ngày 29, rạng sáng ngày 30/10/2023, Trương Văn T chuẩn bị 01 gói ma túy Methamphetamine, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy và thuê phòng số 102 nhà nghỉ 999, địa chỉ: Tổ B, phường Đ, quận N, thành phố Hải Phòng và rủ Nguyễn Thị Kim L sử dụng ma túy cùng với T, sau khi sử dụng xong thì bị Công an quận N bắt quả tang. Hành vi của bị cáo Trương Văn T đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Sau khi vào nhà nghỉ T bỏ ma túy cùng các dụng cụ sử dụng ma tuý rồi bật lửa châm ma tuý cho Lương hút, L hút xong thì T tự lấy ống hút ma tuý sử dụng xong thì bị Công an bắt giữ. Như vậy, hành vi của T bị xét xử theo khoản 1 Điều 255 Bộ luật Hình sự như cáo trạng đã truy tố.

- Về nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ:

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên cần áp dụng cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

- Về hình phạt:

[6] Hành vi phạm tội của của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về cất giữ các chất ma túy, làm suy giảm sức khỏe con người và gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Vì vậy cần phải áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc cách ly bị cáo khỏi xã hội mới đảm bảo tính răn đe của pháp luật.

[7] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người không có việc làm và thu nhập ổn định, không xác định được bị cáo có tài sản riêng nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về xử lý vật chứng:

[8] Tịch thu tiêu hủy: 01 bì giấy dấu niêm phong số 863MT/PC09 có chữ ký của những người có liên quan, chứa vỏ túi nilon của mẫu số 1, tẩu thủy tinh của mẫu số 2 sau khi xử lý mẫu giám định; 01 chai nhựa nắp chai đục 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút; 01 bật lửa gas.

[9] Đối với 01 điện thoại di động S1 đã qua sử dụng: Quá trình điều tra xác định đây là tài sản riêng của bị cáo được sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước:

[10] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Taurus, biển kiểm soát 16P6-X và giấy đăng ký xe: Quá trình điều tra chưa xác định được bị cáo là chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản này nên cần trả lại cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[11] Trong vụ án này, Nguyễn Thị Kim T có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; bà Đinh Thị Hoa L1 là người quản lý nhà nghỉ 999 cho T thuê phòng nghỉ. Mặc dù bà L1 không biết việc T tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy trong phòng nghỉ nhưng với trách nhiệm của người quản lý để xảy ra việc khách sử dụng ma túy, Công an quận N đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với L và bà L1.

[12] Đối với người đàn ông bán ma túy cho Trương Văn T, Cơ quan điều tra làm rõ sẽ xử lý sau.

[13] về án phí: Bị cáo Trương Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[14] Quyền kháng cáo đối với bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 255, Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt: Trương Văn T 36 (ba mươi sáu) tháng tù về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy". Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 30/10/2023.

Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 bì giấy dấu niêm phong số 863MT/PC09 có chữ ký của những người có liên quan, chứa vỏ túi nilon của mẫu số 1, tẩu thủy tinh của mẫu số 2 sau khi xử lý mẫu giám định; 01 chai nhựa nắp chai đục 02 lỗ, một lỗ cắm ống hút; 01 bật lửa gas.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước: 01 điện thoại di động Samsung đã qua sử dụng;

+ Trả lại cho cơ quan điều tra 01 xe mô tô nhãn hiệu YAMAHA, loại Taurus, biển kiểm soát 16P6-X và giấy đăng ký xe để làm rõ xử lý sau.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 41/QĐ-VKSNQ ngày 29/01/2024 của Viện Kiểm sát nhân dân quận Ngô Quyền và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 31/01/2024 giữa Công an quận N và Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền.

Về án phí: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Trương Văn T phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo Trương Văn T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 54/2024/HS-ST

Số hiệu:54/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/03/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;