TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN
BẢN ÁN 53/2022/HSST NGÀY 30/03/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 30 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 30/2022/TLST- HS ngày 28 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2022/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 02 năm 2022, đối với các bị cáo:
1. Nguyễn Thành L, tên gọi khác: không. Sinh ngày 28/01/1991. ĐKHKTT: tổ 10, phường T V, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông Nguyễn Quý D; Con bà Đặng Thị L; Vợ là Đỗ Hồng A; có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.
2. Nguyễn Xuân V, tên gọi khác: không. Sinh ngày 09/10/1997. ĐKHKTT: Tổ 10, phường QT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông Nguyễn Mạnh C; Con bà Nguyễn Thị H1; Vợ là Nguyễn Thị H Q, Có 01 con; Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.
3. Dƣơng Thị Thu H, tên gọi khác: không. Sinh ngày 20/9/1998. ĐKHKTT: xóm QX, xã PT, thị xã PY, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông Dương Văn Th; Con bà Nguyễn Thị L1; Chồng, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.
4. Cao Ngọc T2, tên gọi khác: không. Sinh ngày 14/5/1994. ĐKHKTT: khu TM 2, thị trấn HL, huyện HL, tỉnh Lạng S; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: V Nam; Con ông Cao Xuân Thủy; Con bà Đào Thị H3; Chồng, con chưa có; Tiền án, tiền sự: Không.
Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên (bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 19/9/2021 đến nay). Có mặt tại phiên tòa.
*Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Ngọc Anh S, sinh năm 1992. Có mặt Trú tại: tổ 16, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
2. Anh Lê Thành Q3, sinh năm 1990. Có mặt Trú tại: tổ 08, phường HVT, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
*Người làm chứng:
1. Chị Lữ Thị T3, sinh năm 2000. Vắng mặt Trú tại: bản H, xã TS, huyện TC, tỉnh Nghệ An
2. Chị Trần Mai Q4, sinh năm 1997. Vắng mặt Trú tại: tổ 10, phường QV, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên
3. Chị Phạm Thị V, sinh năm 1970. Vắng mặt trú tại: xóm 7, xã SC thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên
4. Anh Nguyễn Việt D, sinh năm 1984. Vắng mặt Trú tại: tổ 12, phường T, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên
* Người chứng kiến: Ông Nguyễn Xuân Thái, sinh năm 1951. Vắng mặt. Trú tại: Xóm 7, xã SC, thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 23 giờ 50 phút ngày 18/9/2021, tổ công tác của Đội cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên tiến hành kiểm tra khu sinh thái Làng Việt thuộc xóm 7, xã S Cẩm, thành phố Thái Nguyên. Qua kiểm tra tại phòng 10 tầng 4, tổ công tác phát hiện trong phòng có 8 đối tượng nam nữ, bao gồm: Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 và Lê Thành Q3, Ngọc Anh S, Lữ Thị T3, Trần Mai Q4 đang có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy. Đồng thời, tổ công tác phát hiện thu giữ trên mặt bàn có 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa màu vàng và 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng, tất cả đều có bám dính chất bột màu trắng. Theo đó, tất cả đều khai nhận đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút là các đồ dùng để sử dụng ma túy “kẹo” và ma túy Ketamine. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 06 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, trắng, đen của L, V, H, T2, S, Q3. Sau đó, tổ công tác đã lập biên bản sự việc và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định.
Tiến hành xét nghiệm việc sử dụng chất ma túy xác định: Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2, Ngọc Anh S, Lê Thành L, Lữ Thị T3 và Trần Mai Q4 đều dương tính với chất ma túy MDMA và MET.
Tại bản kết luận giám định số: 1388/KL-KTHS ngày 20/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: số chất bột màu trắng bám dính trên đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút gửi giám định là ma túy, loại Ketamine.
Tại công văn số: 97/KTHS ngày 23/10/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên trả lời không xác định được khối lượng số chất bột màu trắng bám dính trên đĩa sứ, thẻ nhựa và ống hút là mẫu vật gửi giám định trong vụ án.
Tại Cơ quan điều tra, Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 18/9/2021, Nguyễn Thành L rủ Ngọc Anh S đến khu sinh thái Làng Việt thuộc xóm 7, xã S Cẩm, thành phố Thái Nguyên để thuê phòng cùng nhau sử dụng trái phép chất ma túy, S đồng ý. Sau đó Nguyễn Thành L gọi điện thoại cho Nguyễn Xuân V để xin số của một phụ nữ bán ma túy tên Trung đồng thời L rủ V cùng đến khu sinh thái Làng Việt để sử dụng ma túy cùng L và S. Sau khi V gửi số của Trung, L gọi điện và thỏa thuận mua 04 viên ma túy “kẹo” và 02 chỉ ma túy Ketamine với giá tiền là 5.400.000 đồng và hẹn điểm giao dịch tại khu sinh thái Làng Việt. Sau đó, L và S cùng đi taxi đến khu sinh thái Làng Việt. Tại đây, L đứng ra thuê phòng số 10 tầng 4 và đặt cọc số tiền 2.000.000 đồng. Cùng lúc này, S gọi điện cho Dương Thị Thu H đến phục vụ, H đồng ý và rủ thêm Cao Ngọc T2 đi cùng. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, H và T2 đến phòng số 10. Khoảng 15 phút sau, L đi ra ngoài hành lang và gặp 01 nam thanh niên không quen biết để nhận ma túy như L đã hẹn trước. Mua ma túy xong, L cầm số ma túy gồm 04 viên ma túy “kẹo” và 02 chỉ ma túy Ketamine mang vào phòng và để ma túy lên mặt bàn. Tiếp đó, L lấy 01 viên ma túy “kẹo” chia đôi với T2, mỗi người sử dụng một nửa bằng hình thức nuốt. Đồng thời, L cũng đưa cho H 01 viên ma túy “kẹo”, H cầm lấy bẻ đôi và dùng một nửa viên bằng hình thức nuốt. H khai, có đưa cho S một nửa viên còn lại nhưng S nhờ H nghiền nhỏ ra pha vào cốc nước Cocacola để S uống. Còn lại hai viên ma túy “kẹo” L và mọi người trong phòng tiếp tục pha vào cốc nước Cocacola và sử dụng hết. Khi tất cả cùng sử dụng ma túy “kẹo” xong thì H bật nhạc bằng điện thoại của H kết nối bluetooth với loa trong phòng để mọi người cùng nhau nghe. Khoảng 01 tiếng sau, T2 xin L một tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và T2 quấn tròn tờ tiền để tạo thành ống hút cho những người trong phòng hít ma túy Ketamine. Sau đó, H cầm đĩa sứ đưa cho T2 và bảo T2 mang đi đốt nóng đĩa để H “xào” ma túy Ketamine. T2 cầm đĩa sứ vào trong nhà vệ sinh và dùng bật lửa đốt nóng đĩa rồi đưa lại đĩa sứ cho H. Lúc này, L đưa cho H 01 túi nilon màu trắng chứa ma túy Ketamine bảo H “xào”. H đổ ma túy Ketamine ra đĩa sứ đang đặt trên giường rồi lấy chiếc thẻ nhựa màu vàng để trên mặt bàn nghiền ma túy Ketamine và chia nhỏ thành 10 đường kẻ có chiều dài khoảng 5cm. H tự sử dụng trước 02 đường, sau đó H mời L, S và T2 lần lượt sử dụng. Tất cả cùng sử dụng ma túy Ketamine bằng cách dùng ống hút mà T2 quấn bằng tờ tiền trước đó và hít bằng mũi. Khoảng 19 giờ cùng ngày, Nguyễn Xuân V đến phòng, T2 đưa một cốc nước Cocacola có pha sẵn ma túy “kẹo” mời V sử dụng bằng hình thức uống. Sau khi uống hết cốc Cocacola có pha ma túy “kẹo” thì V nhìn thấy đĩa sứ đang để trên giường còn 02 đường ma túy Ketamine và một ống hút được quấn bằng tiền nên V cầm ống hút lên và hít hết 02 đường ma túy Ketamine trên. Sử dụng ma túy xong, V cùng mọi người nằm nghe nhạc. Đến khoảng 20 giờ ngày 18/9/2021, Thu đưa cho V một túi nilon màu trắng bên trong chứa ma túy Ketamine để V “xào” , V cầm lấy túi ma túy đổ ra đĩa sứ đã được ai đó đốt nóng từ trước rồi cầm chiếc thẻ nhựa màu vàng để cạnh đĩa sứ lên nghiền ma túy Ketamine và chia ma túy làm nhiều đường thẳng. V tự sử dụng trước 02 đường ma túy Ketamine rồi mời mọi người cùng sử dụng. Tất cả những người trong phòng tiếp tục sử dụng ma túy Ketamine do V “xào” và cùng nằm nghe nhạc. Khoảng 01 tiếng sau, Cao Ngọc T2 nhắn tin rủ thêm Lữ Thị T3 đến sử dụng ma túy cùng. Lúc này Ngọc Anh S cũng gọi điện thoại rủ thêm Lê Thành Q3 đến chơi. Khoảng 22 giờ cùng ngày, Tinh và Q3 đến phòng, thấy có ma túy Ketamine ở trên đĩa nên tự lấy sử dụng bằng hình thức hít. Sau đó, Thu tiếp tục nhắn tin rủ thêm Trần Mai Q4 đến sử dụng ma túy. Tại phòng 10, H cầm đĩa sứ có ma túy Ketamine lên mời Quỳnh sử dụng. Quỳnh đã sử dụng hết số ma túy Ketamine còn lại có ở trên đĩa sứ. Đến khoảng 23 giờ 50 phút ngày 18/9/2021, khi L, V, H, T2, S, T3, Q3, Q4 đã cùng nhau sử dụng xong ma túy và đang nằm nghe nhạc thì bị tổ công tác Công an thành phố Thái Nguyên đến kiểm tra và thu giữ vật chứng như nêu trên.
Ngọc Anh S tại các BL từ 246-250; 255; 256; 257; 258; 259 biên bản lấy lời khai và bản tường trình ngày 19/9/2021 S khai: Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 18/9/2021, sau khi uống bia xong S cùng Nguyễn Thành L cùng rủ nhau đến khu sinh thái Làng V thuộc xóm 7, xã Sơn Cẩm, thành phố Thái Nguyên để thuê phòng phòng 10 tầng 4 khách sạn Làng Việt để cùng nhau sử dụng ma túy. L là người trả tiền thuê phòng. Khi lên đến phòng S có gọi điện thoại cho Dương Thu H lên để chơi cùng, ý là rủ H cùng lên chơi ma túy với nhau. H đi cùng với T2. Ngoài ra, S còn khai có cùng L gọi điện rủ Nguyễn Xuân V lên cùng sử dụng ma túy. S còn gọi cho Lê Thành Q3 là bạn của S đến để sử dụng ma túy. Tuy nhiên, tại các BL 252; 252a; 253, 253a biên bản lấy lời khai ngày 25/9/2021; BL 261;
262 bản tường trình ngày 23/9/2021 và biên bản đối chất của S với H, Q3 tại các BL 295-298, S thay đổi lời khai không thừa nhận cùng L thỏa thuận lên khách sạn Làng V sử dụng ma túy và mục đích S gọi điện rủ H, V, Q3 đến khách sạn Làng V chỉ là đến phục vụ và chơi chứ không phải đến để sử dụng ma túy.
Lời khai của Lữ Thị T3, Lê Thành Q3 và Trần Mai Q4 thể hiện chỉ sử dụng ma túy không tham gia vào quá trình chuẩn bị địa điểm, công cụ, pH tiện để sử dụng ma túy.
* Vật chứng của vụ án gồm: 01 đĩa sứ màu trắng, 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 thẻ nhựa màu vàng. Tất cả được niêm phong trong bì ký hiệu NS1A070492. 06 điện thoại Iphone thu giữ của Cao Ngọc T2, Lê Thành Q3, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Ngọc Anh S, Nguyễn Thành L. Hiện đang được bảo quản tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên chờ xử lý.
Tại bản cáo trạng số 42/CT-VKSNDTPTN, ngày 27/01/2022 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã truy tố Nguyễn Thành L Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 về tội: "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS.
Tại phiên tòa:
- Bị cáo Nguyễn Thành L khai Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/9/2021, sau khi uống bia xong bị cáo là người rủ S lên khu du lịch sinh thái Làng V để sử dụng ma túy, S đồng ý. Bị cáo là người trả tiền thuê phòng, bị cáo gọi điện cho một người tên Trung để mua 4 viên ma túy Kẹo và ma túy ketamine. Bị cáo là người gọi điện rủ V đến cùng sử dụng ma túy, còn S là người gọi điện cho H, Q3 đến, nội dung cuộc điện thoại L không rõ. Sau đó, H có rủ thêm T2 đến cùng. Tại phòng 10 tầng 4 khách sạn Làng Việt, bị cáo và S, V, H, T2, T3, Q4, Q3 cùng sử dụng số ma túy Kẹo và Ke mà bị cáo đã mua cho đến khi bị cơ quan điều tra phát hiện. H và V tham gia xào Ke, T2 là người đốt nóng đĩa và xin bị cáo 10.000đ để quấn lại làm ông hút ke. Bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không có oan, sai.
- Bị cáo Dương Thị Thu H khai, bị cáo được S gọi điện đến rủ đến khách sạn Làng Việt để chơi, bị cáo hiểu là đến sử dụng ma túy. Bị cáo đã rủ T2 đi cùng để phục vụ, giá tiền phục vụ bị cáo chưa nói v ới S. Tại phòng 10 tầng 4 khách sạn Làng V, bị cáo đã sử dụng ½ viên ma túy Kẹo do L đưa và có dùng cả ma túy ketamine. Khi L bảo bị cáo đi xào ke thì bị cáo lấy đĩa hơ nóng và xào rồi đưa cho những người khác cùng sử dụng. Bị cáo đưa cho S ½ viên ma túy kẹo, S có nhờ bị cáo nghiền nhỏ và cho cào cốc cocacola giúp S, bị cáo sau khi nghiền xong thì đưa cho S. Bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không có oan, sai.
- Bị cáo V khai: Bị cáo được L, S gọi điện rủ đến khu du lịch sinh thái Làng V. S gọi điện cho bị cáo chỉ nói là đến chơi, bị cáo hiểu là đến sử dụng ma túy. Đến 19h ngày 18/9/2021 thì bị cáo đến phòng 10, tầng 4 thì đã có L, S, H, Thu ở trong phòng. Tại đây bị cáo có sử dụng ma túy Ke và Kẹo đồng thời bị cáo cũng đổ ma túy ketamine vào đĩa để xào và đưa cho mọi người sử dụng. Bị cáo không thấy S tham gia vào việc chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy. Bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không có oan, sai.
- Bị cáo Thu khai: Bị cáo được H rủ đi phục vụ cho khách tại khách sạn Làng V. Tại đây bị cáo và T2 cùng mọi người sử dụng ma túy, bị cáo có biết S và L. Bị cáo là người cầm bật lửa đốt nóng đĩa sứ và xin L 10.000 đồng để quấn thành ống hút để mọi người sử dụng ma túy ke. Bị cáo có cầm túi nilon chứa ma túy ketamine cho V xào. Bị cáo không thấy S tham gia vào việc chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy. Bị cáo thừa nhận việc truy tố là đúng, không có oan, sai.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (anh S khai): Ngày 18/9/2021 khoảng 16h30, sau khi cùng L đi uống bia thì L rủ anh lên Khu sinh thái Làng Việt để sử dụng ma túy, anh đã đồng ý. Anh không có thỏa thuận với L về việc góp tiền thuê địa điểm sử dụng ma túy. Anh có gọi điện cho H rủ đến chơi chứ không nói là đến sử dụng ma túy. Ngoài ra anh còn gọi điện cho V, Q3 rủ đến khu du lịch sinh thái Làng Việt chơi anh không nói là sử dụng ma túy. Anh đi cùng L đến phòng 10 tầng 4 khách sạn Làng Việt và cùng nhau sử dụng ma túy, số ma túy mọi người sử dụng là do L mua. Anh S không thừa nhận nhờ H nghiền ma túy kẹo cho vào cốc cocacola để S sử dụng. Đối với chiếc điện thoại bị thu giữ, anh đề nghị được trả lại.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan (anh Q3 khai): Khi S gọi điện cho anh rủ đến khu sinh thái Làng Việt chỉ nói là đến chơi nhưng anh hiểu là đến sử dụng ma túy. Khi đến nơi anh đã thấy có L, S, V, H và T2. Anh có gọi điện rủ thêm T3 và Q4 nhưng cũng chỉ nói là đến chơi, tại đây anh đã cùng những người khác sử dụng ma túy. Anh không tham gia vào việc chuẩn bị địa điểm hay công cụ để sử dụng ma túy. Anh không nhìn thấy S tham gia vào việc chuẩn bị công cụ để sử dụng ma túy. Đối với chiếc điện thoại bị thu giữ, anh đề nghị được trả lại.
- Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát bổ sung nội dung bản cáo trạng như sau: Về vai trò của S trong vụ án, S khai không góp tiền với L mua ma túy. Bản tự khai ban đầu S xác định có cùng L rủ nhau lên khách sạn Làng Việt để sử dụng ma túy, S có gọi điện cho V, Q3, H rủ lên khách sạn Làng V để sử dụng ma túy nhưng sau đó S thay đổi lời khai không thừa nhận cùng L rủ nhau sử dụng ma túy và khi gọi điện cho V, Q3, H chỉ nói là rủ lên chơi. S không tham gia vào việc chuẩn bị địa điểm, công cụ sử dụng ma túy. Kết quả đối chất với H, V, Q3 cũng khẳng định S gọi điện chỉ nói rủ đến chơi nhưng các bị cáo và Q3 tự hiểu là đến sử dụng ma túy. Do đó không đủ căn cứ khởi tố đối với S.
Sau khi kết thúc phần xét hỏi, đại diện Viện kiểm nhân dân thành phố Thái Nguyên trình bày bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
+ Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS; điểm s khoản 1, Điều 51 BLHS; Điều 17; Điều 58, xử phạt Nguyễn Thành L từ 07 năm 03 tháng đến 07 năm 06 tháng tù. Xử phạt Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 mõi bị cáo từ 07 năm đến 07 năm 03 tháng tù.
Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
+ Về vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 BLHS, Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ màu trắng, 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 thẻ nhựa màu vàng.
- Tịch thu sung quỹ: 01 điện thoại Iphone thu giữ của L, V, Thu. Tạm giữ điện thoại Iphone của H để đảm bảo thi hành án cho bị cáo. Trả lại 02 điện thoại Iphone cho S, Q3.
+Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Trong phần tranh luận bị cáo không tranh luận .Trong lời nói sau cùng các bị cáo xin HĐXX cho hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về thủ tục tố tụng: Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng nên Hội đồng xét xử không đặt ra việc giải quyết.
[2]. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của các bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng đã thu giữ, kết luận giám định, lời khai của người làm chứng, người chứng kiến cùng các chứng cứ, tài liệu khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:
Hồi 23 giờ 50 phút ngày 18/9/2021, tại phòng 10 tầng 4 khu sinh thái Làng V thuộc xóm 7, xã S Cẩm, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên, Nguyễn Thành L. Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 cùng với Ngọc Anh S, Lê Thành Q3, Lữ Thị T3, Trần Mai Q4 sử dụng 04 viên ma túy “kẹo” bằng hình thức nuốt và uống, sử dụng 02 chỉ ma túy Ketamine bằng hình thức hít thì bị tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố Thái Nguyên kiểm tra, thu giữ vật chứng. Trong đó L là người thuê phòng, chuẩn bị số ma túy nêu trên, Nguyễn Xuân V và Dương Thị Thu H tiến hành “xào” ma túy Ketamine và mời những người trong phòng sử dụng ma túy, còn Cao Ngọc T2 là người cầm bật lửa đốt nóng đĩa sứ và dùng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng để quấn thành ống hút ma túy đồng thời là người đưa ma túy Ketamine cho V chế biến.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên truy tố bị cáo Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 về tội "Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS là có căn cứ.
Nội dung điều luật như sau:
Điều 255 Bộ luật Hình sự quy định:
"1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:
...b) Đối với 02 người trở lên”.
[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy. Các bị cáo đủ nhận thức để nhận biết được tác hại của ma túy gây ra cho bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố ý phạm tội.
Về vai trò đồng phạm: trong vụ án này, Nguyễn Thành L là đồng phạm với vai trò là người chủ mưu, trực tiếp thực hiện tội phạm; Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 là đồng phạm với vai trò là người giúp sức tích cực.
Khi lượng hình Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo thấy: Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa hôm nay các bị cáo đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo H có ông nội là Dương Văn Quyền được tặng thưởng huân chương kháng chiến, các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1Điều 51 BLHS. và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Khoản 1 Điều 52 BLHS. Mức hình phạt vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị đối với các bị cáo là phù hợp.
Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản gì nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.
[4]. Vật chứng vụ án: Đối với 01 đĩa sứ màu trắng và 01 thẻ nhựa màu vàng tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, thu giữ của Nguyễn Thành L, điện thoại của V, T2 đều là công cụ phạm tội nên tịch thu sung quỹ nhà nước. Đối với điện thoại thu giữ của H tạm giữ để đảm bảo thi hành án cho bị cáo. Trả lại cho Q3, S 02 điện thoại Iphone màu đen.
[5]. Về các vấn đề khác: Các bị cáo phải nộp án hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Về nguồn gốc số ma túy các bị cáo đã sử dụng, L khai mua của người phụ nữ tên Trung và 01 nam thanh niên là người đã giao ma túy cho L vào ngày 18/9/2021 tại khu sinh thái Làng Việt. Hiện L đã xóa số của Trung và nam thanh niên đó ngay sau khi mua xong ma túy. Ngày 24/12/2021, Cơ quan điều tra đã có công văn số 2767 gửi Tập đoàn viễn thông Q3 đội Viettel, chi nhánh Thái Nguyên đề nghị tra cứu danh sách cuộc gọi đi, đến của số thuê bao 0982020250 là số điện thoại của L sử dụng để giao dịch mua bán ma túy vào ngày 18/9/2021, đến nay chưa có kết quả. Vì vậy, Cơ quan điều tra sẽ tiếp tục xác minh làm rõ sau.
Đối với Ngọc Anh S, trong các lời khai ban đầu tại các BL từ 246-250; 255; 256; 257; 258; 259 ngày 19/9/2021 S thừa nhận được L rủ lên khu sinh thái Làng V để sử dụng ma túy và S là người gọi điện cho H, Q3, V rủ đến sử dụng ma túy cùng. Tuy nhiên, sau đó đã thay đổi lời khai không thừa nhận gọi điện cho H, Q3, V rủ đến sử dụng ma túy mà chỉ nói đến chơi. Tại phiên tòa S vẫn khẳng định không cùng L thỏa thuận cùng lên khu sinh thái Làng Việt sử dụng ma túy không góp tiền mua ma túy với L và không cùng L trả tiền phòng, S gọi điện cho H, Q3, V rủ đến khu sinh thái Làng V chỉ nói là đến chơi. Tại phòng 10 tầng 4, khách sạn Làng Việt, S chỉ sử dụng ma túy mà không chỉ đạo hay tham gia vào quá trình chuẩn bị công cụ, phương tiện để sử dụng ma túy, S không nhờ H nghiền ma túy kẹo cho vào cốc cocacola như lời H khai. Kết quả đối chất giữa S với Q3, H; H với L trong giai đoạn điều tra cũng như lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thể hiện S chỉ gọi điện rủ đi chơi nhưng V, H và Q3 đều hiểu là đến để sử dụng ma túy nên đã khai ban đầu tại cơ quan điều tra là S rủ đi sử dụng ma túy. Vì vậy, không đủ căn cứ vững chắc để khởi tố đối với hành vi của S.
Đối với Lữ Thị T3, Lê Thành Q3 và Trần Mai Q4 là những người cùng sử dụng ma túy với L, V, H, T2. Tuy nhiên T3, Q3, Q4 xác định không biết ma túy do ai chuẩn bị và mua khi nào, ở đâu. Ngày 19/9/2021, Công an thành phố Thái Nguyên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với S, T3, Q3, Q4 về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là có căn cứ.
Đối với chị Phạm Thị V, chủ cơ sở kinh doanh lưu trú nhà nghỉ sinh thái Làng V và Nguyễn Việt D là người quản lý cơ sở lưu trú nhà nghỉ sinh thái Làng V. Quá trình điều tra xác định bà V, ông D không biết khách đến thuê phòng để sử dụng ma túy nhưng là người có trách nhiệm quản lý cơ sở lưu trú để cho khách lợi dụng để sử dụng trái phép chất ma túy, Công an thành phố Thái Nguyên đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính theo quy định.
Bởi các lẽ trên.
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Thành L, Nguyễn Xuân V, Dương Thị Thu H, Cao Ngọc T2 phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
1. Về hình phạt: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 BLHS:
- Xử phạt Nguyễn Thành L 07 (bẩy) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2021.
- Xử phạt Nguyễn Xuân V 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2021.
- Xử phạt Dương Thị Thu H 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2021
- Xử phạt Cao Ngọc T2 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2021 Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.
Căn cứ Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự tiếp tục tạm giam các bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
2. Vật chứng: Căn cứ vào Điều 47; Điều 48 BLHS, Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy: 01 đĩa sứ màu trắng, 01 thẻ nhựa màu vàng được niêm phong trong bì ký hiệu NS1A070492.
- Tịch thu sung quỹ:
+ 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng được niêm phong trong bì ký hiệu NS1A070492.
+ Của Nguyễn Thành L: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, không kiểm tra được tình trạng bên trong;
+ Của Nguyễn Xuân V 01 điện thoại Iphone màu trắng, không kiểm tra được tình trạng bên trong;
+ Của Cao Ngọc T2: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng không kiểm tra được tình trạng bên trong, đã vỡ mặt sau.
- Tạm giữ: của Dương Thị Thu H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng không kiểm tra được tình trạng bên trong.
- Hoàn trả:
+ Cho Lê Thành Q3 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen có số IMEI: 352977095913888, không kiểm tra được tình trạng bên trong.
+ Cho Ngọc Anh S 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu đen không kiểm tra được tình trạng bên trong (Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng số 114 ngày 08/02/2022 giữa Công an thành phố Thái Nguyên và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên).
3. Án phí: Căn cứ vào Điều 136 BLTTHS; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH 13 ngày 25/11/2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí lệ phí Tòa án: buộc các bị cáo L, V, H, Thu phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ nhà nước.
4. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 53/2022/HSST
Số hiệu: | 53/2022/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/03/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về