Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 40/2021/HS-PT

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 40/2021/HS-PT NGÀY 14/06/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 34/2021/TLPT-HS ngày 16 tháng 3 năm 2021 do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 05 tháng 02 nă m 2021 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Bị cáo có kháng cáo:

1. Nguyễn Đức T, sinh ngày 05/5/1997; Nơi sinh: Xã N, huyện H, tỉnh Nam Định; trú tại: Thôn A, xã D, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn C và bà Lại Thị H; vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/7/2020 đến nay (Có mặt).

2. Nguyễn Văn K, sinh ngày 04/3/1994; Nơi sinh: Xã N, huyện H, tỉnh Nam Định; trú tại: Thôn A, xã D, huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 12/12; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Văn C và bà Lại Thị H; có vợ là Lương Thị Huyền T và có 02 con, lớn sinh năm 2018, nhỏ sinh năm 2021; Tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 22/7/2020 đến nay (Có mặt).

Trong vụ án còn có các bị cáo khác, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhưng không có kháng cáo, kháng nghị, Tòa án không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Sáng ngày 22/7/2020, Nguyễn Khắc B gọi điện cho Bùi Văn P, mời P cùng một số bạn bè của B đến nhà uống rượu tại lễ ăn hỏi của B sau đó đi hát và chơi (Ý là sử dụng ma túy). P chỉ đồng ý đi hát và sử dụng ma túy, không tham gia uống rượu. Khoảng 8 giờ cùng ngày, một số bạn bè có mặt tại nhà B để dự lễ ăn hỏi gồm: Nguyễn Văn K, Nguyễn Đức T, Tạ Quang D, Nguyễn Đình G, Tạ Quang E và Tạ Quang F. Quá trình ăn uống B mời nhóm bạn trên đến quán hát Karaoke KingDom do Nguyễn Văn K làm chủ để hát và sử dụng ma túy thì mọi người đều đồng ý. Sau đó B gọi điện thoại cho Nguyễn Đình I hỏi mua 04 viên ma túy tổng hợp (Kẹo) mục đích để tổ chức cho bạn bè của T sử dụng tại quán Karaoke KingDom, I đồng ý và báo giá 550.000đ/01 viên. Trong lúc B gọi điện cho I để hỏi mua ma túy thì I đang ngồi trên xe ô tô BKS 88A-060.13 do Bùi Văn P điều khiển ( P gặp I mục đích để nhờ I đi mua ma túy cho P để P sử dụng). I nhờ P đưa đến khu vực thị trấn V, huyện V gần quán Bar X5 để mua ma túy. Đến nơi, I xuống xe tìm gặp và mua của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch 04 viên ma túy kẹo với giá 400.000đ/1 viên sau đó quay trở lại chỗ P. Tại đây, I gọi điện cho B để hỏi ý kiến B về việc đưa ma túy cho P mang về hộ thì B đồng ý, nên I đưa cho P 04 viên ma túy kẹo này. P biết việc B đặt mua ma túy của I để tổ chức cho bạn bè sử dụng ma túy nên đồng ý cầm về hộ. Khoảng 10 giờ cùng ngày, sau khi uống rượu tại nhà B xong thì K, T, D, G, F cùng lên xe ô tô của K để về quán hát King Dom. Trên đường đi, K gọi điện cho B bảo B sang quán thì B bảo mọi người cứ sang hát và gọi đồ (Ý là ma túy) sử dụng trước, B sang sau. K thông báo với mọi người trên xe về việc B sang sau, còn mọi người cứ hát và sử dụng ma túy trước. Do đó, T đã chủ động mua ma túy ke, kẹo để cả nhóm cùng sử dụng. T gọi điện thoại cho một người đàn ông tên là Đ (Hiện chưa rõ lai lịch) hỏi mua 01 chỉ ma túy ke và 05 viên ma túy kẹo. Sau khi cả nhóm lên phòng hát được khoảng 05 phút thì có nam giới tên K (Hiện chưa rõ lai lịch) gọi T xuống phòng 201 của quán hát King Dom và đưa cho T 02 gói ma túy ke cùng 05 viên ma túy kẹo. T mang số ma túy lên phòng hát, để trên mặt bàn và đi vệ sinh, trong lúc mọi người đang hát thì có một người (Không xác định được là ai) gọi từ khu vực gần phòng hát 403 xuống quầy lễ tân bảo cho 01 đĩa sứ lên phòng 403 thì H1 là nhân viên lễ tân của quán King Dom, mang 01 đĩa sứ và 01 vỏ thẻ sim điện thoại để sẵn trên mặt đĩa sứ lên phòng 403. Sau đó, K lấy 02 gói ma túy ke do T mang vào đổ ra đĩa sứ rồi dùng vỏ thẻ sim miết, gạt ma túy cho mịn (Gọi là xào ke). Trong khi K đang xào ke thì T đi vệ sinh xong vào, T thấy còn 03 viên ma túy kẹo trên bàn nên hỏi ai chưa dùng kẹo thì D và G nói chưa dùng nên T đưa cho D và G mỗi người một viên ma túy kẹo để sử dụng, còn 01 viên T cho vào một cốc thủy tinh có sẵn trong phòng giã nhỏ ra rồi đổ nước Cocacola vào và uống hết nửa cốc. D và G cũng pha ma túy với Cocacola để sử dụng. Lúc này có 04 nhân viên của quán là Đỗ Ngọc L, Phạm Thị Hồng D1, Vi Thị P T1và Hoàng Thị D2 cũng đi vào phòng hát 403 để phục vụ. L đến ngồi gần T, T đưa cho L cốc ma túy kẹo vừa pha thì L uống hết. Khi K xào ke xong thì chia ra làm 08 đường nhỏ trên đĩa sứ cho mọi người sử dụng. Lúc này T, K, F, G, D, L, D1, T1, D2 sử dụng 01 ống hút bằng tờ tiền polyme 10.000đ cuộn tròn lại và hít ke. Khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, Bùi Văn P đem 04 viên ma túy kẹo mà P cầm hộ B đến phòng 403 của quán King Dom, do không thấy B đâu nên P đưa số ma túy này cho T và bảo T là ma túy của B chuẩn bị cho mọi người sử dụng. T cầm số ma túy này bỏ vào túi quần và tiếp tục nghe nhạc cùng mọi người. Một lúc sau, thấy trên bàn không còn ma túy nên T tiếp tục gọi điện cho người đàn ông tên Đ hỏi mua thêm 02 chỉ ma túy ke và 10 viên ma túy kẹo. Một lúc sau thanh niên tên K lại đến đưa cho T 10 viên ma túy kẹo và 03 gói nhỏ đựng ma túy ke. T cầm số ma túy này lên phòng, để số ma túy này lên mặt bàn cạnh đĩa sứ đã sử dụng để xào ke trước đó. K lấy 01 gói ma túy ke mà T mang lên đổ ra đĩa sứ chuẩn bị xào ke cho mọi người sử dụng thì K nhìn thấy trên bàn có khoảng nửa viên ma túy kẹo bị vỡ vụn nên gạt số ma túy này vào một cốc thủy tinh trong phòng hát và tiếp tục xào ke. T thấy trên bàn còn 02 gói ma túy ke và 09 viên ma túy kẹo thì cất toàn bộ số ma túy này vào túi quần của mình mục đích để bản thân và mọi người tiếp tục sử dụng. Cả nhóm tiếp tục nghe nhạc đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện phát hiện bắt quả tang và thu giữ các vật chứng:

Thu tại túi quần phía trước bên trái của T 09 viên nén màu nâu đựng trong 01 túi nilon; 04 viên nén màu tím; 02 túi nilon bên trong chứa tinh thể dạng đá. Niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1.

Thu trên mặt bàn trong phòng hát 403 của quán Karaoke King Dom 01 đĩa sứ, trên đĩa sứ có 02 ống hút được cuốn bằng 02 tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng, ở giữa mặt đĩa có chứa tinh thể dạng đá tiến hành gạt tinh thể dạng đá này vào 01 túi nilon; 01 bật lửa ga, 01 vỏ thẻ sim điện thoại; 03 túi nilon đã bóc còn bám dính tinh thể dạng đá. Tiến hành niêm phong 03 túi nilon này và 01 túi nilon mô tả trên trong phong bì thư ký hiệu A2.

Thu giữ trên mặt bàn cạnh đĩa sứ mô tả trên 01 cốc thủy tinh bên trong chứa chất bột màu nâu. Tiến hành đổ, gạt chất bột này vào 01 túi nilon và niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A3.

Thu giữ 01 cốc thủy tinh bên trong chứa dung dịch màu trắng, vẩn đục. Tiến hành đổ dung dịch vào 01 chai nhựa. Niêm phong chai nhựa và cốc thủy tinh này trong 01 thùng cát tông ký hiệu A4.

Quá trình điều tra còn thu giữ: 01 điện thoại nhãn hiệu VSMART màu đen đã qua sử dụng và 01 điện thại Nokia màu đen của Nguyễn Đình I, 01 điện thoại Iphone 11Pro Max của Nguyễn Đức T, 01 điện thoại Iphone X màu trắng của Bùi Văn P, 01 điện thoại Samsung S10 của Nguyễn Khắc B, 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max của Nguyễn Văn K, 01 điện thoại Iphone XS Max của Nguyễn Thanh Hải, 01 điện thoại Iphone 6S màu hồng của N và 01 xe ô tô Toyota Camry BKS 88A-060.13 để phục vụ công tác điều tra.

Ti kết luận giám định số 1863/KLGĐ ngày 27/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

1. 09 viên nén màu nâu có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 4,4030g không kể bao bì loại MDMA.

2. 04 viên nén màu tím có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,9257g không kể bao bì loại MDMA.

3. Tinh thể có mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1872g không kể bao bì loại Ketamine.

4. Tinh thể trong 01 túi nilon có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1447g không kể bao bì loại Ketamine.

5. Tinh thể bám dính trong 03 túi nilon có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine. Không xác định được khối lượng phần tinh thể do tồn tại ở dạng vết bám dính.

6. Chất bột màu nâu của mẫu ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0686g không kể bao bì loại MDMA.

7. Chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định là chất ma túy lẫn tạp chất loại MDMA và Ketamine. Thể tích mẫu gửi giám định là 250ml.

Ti kết luận giám định số 2243A/KLGĐ ngày 10/9/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Nồng độ chất ma túy MDMA có trong mẫu chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định là 0,0009mg/1ml. Không xác định được nồng độ chất ma túy Ketamine trong mẫu chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định do tồn tại ở dạng vết.

Quá trình điều tra cơ quan điều tra đã thu giữ mẫu nước tiểu của Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K, Bùi Văn P, Nguyễn Đình G, Tạ Quang D, Đỗ Ngọc L, Phạm Thị Hồng D1, Vi Thị P T1, Hoàng Thị D2 và trưng cầu giám định ma túy trong mẫu nước tiểu. Ngày 28/7/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc có kết luận giám định kết quả như sau:

Tìm thấy các chất ma túy MDMA và Ketamine trong mẫu nước tiểu của Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K, Bùi Văn P, Nguyễn Đình G, Tạ Quang D, Đỗ Ngọc L, Hoàng Thị D2; Tìm thấy chất ma túy Ketamine trong mẫu nước tiểu của Vi Thị P T1và Phạm Thị Hồng D1.

Vi hành vi như trên, tại Bản án số 06/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân huyện Y đã quyết định:

Tuyên bố: Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/7/2020.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn K 07 (bảy) năm 03 (ba) tháng tù thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/7/2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định hình phạt các bị cáo khác, xử lý vật chứng, tuyên án phí và tuyên quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/02/2021 bị cáo Nguyễn Đức T có đơn kháng cáo, ngày 14/02/2021 bị cáo Nguyễn Văn K có đơn kháng cáo, các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tại phiên tòa các bị cáo giữ nguyên kháng cáo.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc giữ quyền công tố tại phiên toà phúc thẩm phát biểu quan điểm, phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K sửa bản án sơ thẩm, theo hướng giảm hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị phạt Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K mỗi bị cáo từ 05 năm đến 06 năm tù.

Ti phiên toà phúc thẩm, mặc dù bị cáo Nguyễn Khắc B không kháng cáo, nhưng Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét tổng thể vụ án, giảm 06 tháng tù cho bị cáo B.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa phúc thẩm; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hình thức: Đơn kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K làm trong hạn luật định, hợp lệ được xem xét giải quyết.

[2] Về nội dung: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo Nguyễn Đức T, Nguyễn Văn K đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, lời khai tại phiên tòa sơ thẩm, có đủ căn cứ để xác định như sau: Ngày 22/7/2020, gia đình tổ chức lễ ăn hỏi cho Nguyễn Khắc B. B có gọi điện mời một số bạn bè đến nhà uống rượu, sau đó đi hát và chơi (Ý là sử dụng ma túy). Khoảng 8 giờ cùng ngày có Nguyễn Văn K, Nguyễn Đức T, Tạ Quang D, Nguyễn Đình G, Tạ Quang Evà Tạ Quang F. Quá trình ăn uống B mời nhóm bạn trên đến quán hát Karaoke KingDom do Nguyễn Văn K làm chủ để hát và sử dụng ma túy. Sau đó B gọi điện thoại cho Nguyễn Đình I hỏi mua 04 viên ma túy tổng hợp (Kẹo) để tổ chức cho bạn bè của B sử dụng tại quán Karaoke KingDom. Trong lúc B gọi điện cho I hỏi mua ma túy thì I đang ngồi trên xe ô tô BKS 88A-060.13 do Bùi Văn P điều khiển. I nhờ P đưa đến khu vực thị trấn V, huyện V gần quán Bar X5 để mua ma túy. Đến nơi, I xuống xe tìm gặp và mua của một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch 04 viên ma túy kẹo với giá 400.000đ/1viên sau đó quay trở lại chỗ P. I gọi điện cho B hỏi ý kiến B về việc đưa ma túy cho P mang về hộ thì B đồng ý, nên I đưa cho P 04 viên ma túy kẹo. Khoảng 10 giờ cùng ngày, sau khi uống rượu tại nhà B xong thì K, T, D, G, F cùng lên xe ô tô của K để về quán hát King Dom. Trên đường đi, K gọi điện cho B bảo B sang quán thì B bảo mọi người cứ sang hát và gọi đồ (Ý là ma túy) sử dụng trước, B sang sau. K thông báo với mọi người trên xe về việc B sang sau, còn mọi người cứ hát và sử dụng ma túy trước. Do đó, T đã chủ động mua ma túy ke, kẹo để cả nhóm cùng sử dụng. T gọi điện thoại cho một người đàn ông tên là Đ, hỏi mua 01 chỉ ma túy ke và 05 viên ma túy kẹo. Sau khi cả nhóm lên phòng hát được khoảng 05 phút thì có nam giới tên K gọi T xuống phòng 201 của quán hát King Dom và đưa cho T 02 gói ma túy ke cùng 05 viên ma túy kẹo. T mang số ma túy lên phòng hát, để trên mặt bàn và đi vệ sinh. Trong lúc mọi người đang hát thì có một người (Không xác định được là ai) gọi từ khu vực gần phòng hát 403 xuống quầy lễ tân bảo cho 01 đĩa sứ lên phòng 403 thì H1 là nhân viên lễ tân của quán King Dom, mang 01 đĩa sứ và 01 vỏ thẻ sim điện thoại để sẵn trên mặt đĩa sứ lên phòng 403. Sau đó, K lấy 02 gói ma túy ke do T mang vào đổ ra đĩa sứ rồi dùng vỏ thẻ sim miết, gạt ma túy cho mịn (Gọi là xào ke). Trong khi K đang xào ke thì T đi vệ sinh xong vào phòng 403, T thấy còn 03 viên ma túy kẹo trên bàn nên hỏi ai chưa dùng kẹo thì D và G nói chưa dùng nên T đưa cho D và G mỗi người một viên ma túy kẹo để sử dụng, còn 01 viên ma túy kẹo T cho vào một cốc thủy tinh có sẵn trong phòng giã nhỏ ra rồi đổ nước Cocacola vào và uống hết nửa cốc. D và G cũng pha ma túy với Cocacola để sử dụng. Lúc này có 04 nhân viên của quán là Đỗ Ngọc L, Phạm Thị Hồng D1, Vi Thị P T1và Hoàng Thị D2 cũng đi vào phòng hát 403 để phục vụ. L đến ngồi gần T, T đưa cho L cốc ma túy kẹo vừa pha thì L uống hết. Khi K xào ke xong thì chia ra làm 08 đường nhỏ trên đĩa sứ cho mọi người sử dụng. Lúc này T, K, F, G, D, L, D1, T1, D2 sử dụng 01 ống hút bằng tờ tiền polyme 10.000đ cuộn tròn lại và hít ke. Khoảng hơn 12 giờ cùng ngày, Bùi Văn P đem 04 viên ma túy kẹo mà P cầm hộ B đến phòng 403 của quán King Dom, do không thấy B đâu nên P đưa số ma túy này cho T và bảo T là ma túy của B chuẩn bị cho mọi người sử dụng. T cầm số ma túy này bỏ vào túi quần và tiếp tục nghe nhạc cùng mọi người. Một lúc sau, thấy trên bàn không còn ma túy nên T tiếp tục gọi điện cho người đàn ông tên Đ hỏi mua thêm 02 chỉ ma túy ke và 10 viên ma túy kẹo. Một lúc sau thanh niên tên K lại đến đưa cho T 10 viên ma túy kẹo và 03 gói nhỏ đựng ma túy ke. T cầm số ma túy này lên phòng, để số ma túy này lên mặt bàn. K lấy 01 gói ma túy ke đổ ra đĩa sứ chuẩn bị xào ke cho mọi người sử dụng thì K nhìn thấy trên bàn có khoảng nửa viên ma túy kẹo bị vỡ vụn nên gạt số ma túy này vào một cốc thủy tinh trong phòng hát và tiếp tục xào ke. T thấy trên bàn còn 02 gói ma túy ke và 09 viên ma túy kẹo thì cất toàn bộ số ma túy này vào túi quần của mình mục đích để mọi người tiếp tục sử dụng. Cả nhóm tiếp tục nghe nhạc đến khoảng 13 giờ cùng ngày thì bị Công an huyện Y phát hiện bắt quả tang và thu giữ các vật chứng.

[3] Tại kết luận giám định số 1863/KLGĐ ngày 27/7/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:

1. 09 viên nén màu nâu có trong mẫu kỹ hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 4,4030g không kể bao bì loại MDMA.

2. 04 viên nén màu tím có trong mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 1,9257g không kể bao bì loại MDMA.

3. Tinh thể có mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1872g không kể bao bì loại Ketamine.

4. Tinh thể trong 01 túi nilon có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,1447g không kể bao bì loại Ketamine.

5. Tinh thể bám dính trong 03 túi nilon có trong mẫu ký hiệu A2 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine. Không xác định được khối lượng phần tinh thể do tồn tại ở dạng vết bám dính.

6. Chất bột màu nâu của mẫu ký hiệu A3 gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,0686g không kể bao bì loại MDMA.

7. Chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định là chất ma túy lẫn tạp chất loại MDMA và Ketamine. Thể tích mẫu gửi giám định là 250ml.

[4] Tại kết luận giám định số 2243A/KLGĐ ngày 10/9/2020 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Nồng độ chất ma túy MDMA có trong mẫu chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định là 0,0009mg/1ml. Không xác định được nồng độ chất ma túy Ketamine trong mẫu chất lỏng màu trắng đục của mẫu ký hiệu A4 gửi giám định do tồn tại ở dạng vết.

[5] Căn cứ vào lời khai của các bị cáo tại phiên toà phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thấy rằng cấp sơ thẩm đã điều tra, truy tố và xét xử bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, theo điểm b, c khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự năm 2015 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội, không oan sai.

[6] Xét đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K, Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, ma tuý là tệ nạn cần phải loại bỏ ra khỏi đời sống xã hội vì nó làm xói mòn đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, ảnh hưởng đến sức khoẻ con người và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do vậy, việc đưa các bị cáo ra xử lý nghiêm minh trước pháp luật là cần thiết để giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để tuyên phạt bị cáo mức án 07 năm 06 tháng tù đối với Nguyễn Đức T và 07 năm 03 tháng tù đối với Nguyễn Văn K là có căn cứ.

[6] Tại phiên tòa phúc thẩm, gia đình bị cáo đã xuất trình cho Hội đồng xét xử tình tiết giảm nhẹ mới đó là: Gia đình bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K là gia đình có công với Nước, có bác ruột là liệt sỹ. Vợ bị cáo K có ông nội là liệt sỹ, mẹ của các bị cáo đang bị ung thư. Các bị cáo nhất thời phạm tội, không phải là đối tượng nghiện hút, lần đầu bị xử lý trước pháp luật. Trong vụ án này hai bị cáo là anh em ruột, không có sự bàn bạc thống nhất từ trước. Đây là những tình tiết giảm nhẹ mới được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cấp sơ thẩm chưa xem xét áp dụng. Quá trình điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với bị cáo Nguyễn Khắc Btuy không kháng cáo, nhưng trong vụ án này Hội đồng xét xử thấy rằng: Các bị cáo nhất thời phạm tội, không có sự bàn bạc thống nhất từ trước, việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý là do nhân ngày vui của bạn bè, các bị cáo không phải là đối tượng nghiện hút. Việc tổ chức cho các đối tượng sử dụng ma tuý là để đáp ứng sự hiếu kỳ, không nhằm mục đích gì khác. Đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo B của Viện kiểm sát được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K được Hội đồng xét xử chấp nhận nên các bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 345; điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1, khoản 3 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 06/2021/HS-ST ngày 05/02/2021 của Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Vĩnh Phúc.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyn Đức T 05 năm 03 tháng tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/7/2020.

Nguyn Văn K 05 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 22/7/2020.

Áp dụng: Điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt:

Nguyn Khắc B07 năm tù về tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 23/7/2020.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Nguyễn Đức T và Nguyễn Văn K không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

528
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 40/2021/HS-PT

Số hiệu:40/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;