TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 34/2024/HS-ST NGÀY 24/10/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24/10/2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh H1 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 29/2024/HSST ngày 02/10/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2024/QĐXXST-HS ngày 10/10/2024; đối với các bị cáo:
1/ Nguyễn Văn T1, sinh năm 1993; tại thị trấn S, huyện S, tỉnh H1; nơi cư trú: Tiểu khu Hưng Đạo, thị trấn S, huyện S, tỉnh H1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn B2, sinh năm 1972 và bà Nguyễn Thị Nh, sinh năm 1975 (đã chết); có vợ: Nguyễn Thị Ph, sinh năm 1997; có 02 con: con lớn sinh năm 2015, con nhỏ sinh năm 2021; Tiền án; tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/6/2024 đến ngày 04/6/2024; tạm giam từ ngày 04/6/2024 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện S, tỉnh H1; Có mặt.
2/ Ngô Thị Minh Ng, sinh ngày 15/4/2006; tại thị trấn Sao Vàng, huyện Thọ Xuân, tỉnh H1; nơi cư trú: Khu phố 3, thị trấn Sao Vàng, huyện Thọ Xuân, tỉnh H1; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Minh S, sinh năm 1972 (đã chết) và bà Lê Thị Ng, sinh năm 1977, chưa có chồng con; Tiền án, tiền sự: không.
Nhân thân:
- Ngày 13/9/2021, bị Công an thị trấn Lam S1, huyện Thọ Xuân xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi đánh nhau nơi công cộng.
- Ngày 30/6/2023, bị Công an huyện S, tỉnh H1 xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý, do chưa đủ 18 tuổi.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 02/6/2024 đến ngày 04/6/2024; tạm giam từ ngày 04/6/2024 đến nay; hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Vĩnh Lộc, tỉnh H1; Có mặt.
* Người làm chứng:
1/ A Ngô Văn Tr - Sinh năm 1989; địa chỉ: thôn Bạch Đằng, xã Ng Bạch, huyện S, tỉnh H1 (vắng mặt);
2/ A Phạm Văn S1 - Sinh năm 1996; địa chỉ: Tiều khu Ng Lộ, thị trấn S, huyện S, tỉnh H1 (vắng mặt);
3/ A Trần Quốc T1 - Sinh năm 2002; địa chỉ: Thôn Đại S1, xã Lĩnh Toại, huyện H1 Trung, tỉnh H1 (vắng mặt).
4/ Chị Nguyễn Thị H1 - Sinh năm 2003; địa chỉ: Thôn Tân Thành, xã Xuân Kiên, huyện Thọ Xuân, tỉnh H1 (vắng mặt)
5/ Chị Nguyễn Thị T2 - Sinh năm 2001; địa chỉ: xã Du Già, huyện Yên Ninh, tỉnh H1 Giang (vắng mặt).
6/ Chị Lò Thị H2 - Sinh năm 2001; địa chỉ: xã Phiêng Căm, huyện Mai S1, tỉnh S1 La (vắng mặt);
7/ A Phạm Ng A - Sinh năm 1995; địa chỉ: Phường Tân Mai, quận Hoằng Mai, TP. H1 Nội (vắng mặt);
8/ Chị Võ Thị Tuyết Ph - Sinh năm 2002; địa chỉ: Quảng Phú, thị trấn Cư Mga, tỉnh Đăk Lăk (vắng mặt);
9/ Chị Nguyễn Thị Ph - Sinh năm 1997; địa chỉ: Tiểu khu Hưng Đạo, thị trấn S, huyện S, tỉnh H1 (vắng mặt);
10/ Bà Nguyễn Thị Nh - Sinh năm 1964; địa chỉ: Tiểu khu Hưng Đạo, thị trấn S, huyện S, tỉnh H1 (vắng mặt);
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung được tóm tắt như sau:
Khoảng 02 giờ 30 phút, ngày 01/6/2024, lực lượng phòng chống ma tuý Công an huyện S phối hợp Công an thị trấn S tiến hành kiểm tra nhà trọ của Nguyễn Văn T1 đang thuê trọ ở cùng một số nữ nhân viên phục vụ quán hát trên địa bàn có biểu hiện nghi vấn liên quan đến hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. T2 hành kiểm tra, tổ công tác phát hiện có 09 đối tượng nam, nữ có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma tuý, gồm: Nguyễn Văn T1, Phạm Văn S1, Ngô Thị Minh Ng, Trần Quốc T1, Nguyễn Thị H1, Phạm Ng A, Lò Thị H2, Nguyễn Thị T2, Võ Thị Tuyến Ph. Đồng thời thu giữ toàn bộ tang vật liên quan đến hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý.
Nguồn gốc ma tuý theo T1 khai là người trực tiếp bỏ tiền mua của Ngô Văn Tr (Tr cuội), sinh năm 1989, ở xã Ng Bạch, huyện S tại khu vực quán Bar HL Clup, thôn Yên Khoái, xã Ng Yên, huyện S, tỉnh H1, giá 2.100.000đ nhưng chưa thanh toán tiền cho Tr. T1 là người chuẩn bị đĩa sứ, khò lửa, bật lửa, đèn Lead, loa, thẻ cứng, chai Pesi, xào ke, dùng tờ tiền polyme mệnh giá 100.000đ, cuộn thành dạng ống hút để sử dụng. Sau đó, T1 sử dụng và tổ chức cho 05 người khác, gồm: Ng, S1, T1, H1, T2 sử dụng. Tổ công tác đã tiến hành mời người chứng kiến lập biên bản vụ việc, đưa các đối tượng cùng tang vật về trụ sở để xử lý theo quy định của pháp luật.
Tài sản và vật chứng thu giữ, gồm:
- 01 đĩa sứ màu trắng, đường kính 25cm, trên bề mặt đĩa có chất tinh thể màu trắng.
- 01 ống hút cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 100.000đ, cố định 02 đầu bằng 02 vỏ đầu lọc của điếu thuốc lá (ký hiệu M1) - 01 thẻ cứng màu đen có chữ GUCCI (ký hiệu M2) - 01 loa xách tay màu đen có chữ haran/karden - 01 khò lửa có chữ “HD” - 01 bình gas mini màu xanh trắng, có chữ Max Smarrt - 01 bật lửa màu đỏ có chữ 555 Vip - 01 đèn nháy màu trắng, dán giấy màu vàng có dòng chữ CLASS ILASR PRODUCT - 01 điện thoại di động Iphone 15 Pro Max màu xám có số IMEI 1: 35049219.740942 và số IMEI 2: 35049219.745634 gắn sim số 0855.651.xxx đã qua sử dụng thu của Nguyễn Văn T1 - 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max màu vàng có số IMEI 1: 3539201.064308 và số IMEI 2: 35392010.037869 gắn sim số 0865.398.xxx đã qua sử dụng thu của Ngô Thị Minh Ng.
Cơ quan CSĐT tiến hành khám xét nơi ở của Nguyễn Văn T1 nhưng không phát hiện thu giữ đồ vật, tài sản gì.
Cơ quan CSĐT đưa các đối tượng đi xét nghiệm ma tuý nhanh thông qua nước tiểu tại Trậm y tế thị trấn S, kết quả xác định: Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng, Phạm Văn S1, Trần Quốc T1, Nguyễn Thị T2 dương tính với ma tuý loại Methamphetamine (MET) và MDMA; Nguyễn Thị H1 dương tính với ma tuý loại Methamphetamine (MET); Phạm Ng A dương tính với ma tuý loại KET; Võ Thị Tuyết Phương, Lò Thị H2 âm tính với ma tuý Tại Quyết định trưng cầu giám định số 213/QĐ-ĐCSKT-MT, ngày 01/6/2024, Cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện S trưng cầu giám định chất ma tuý đối với tang vật thu giữ.
Tại Bản kết luận giám định số 2151/KL-KTHS ngày 03/6/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1, kết luận:
- Chất màu trắng dạng tinh thể bám dính trên bề mặt đĩa sứ của hộp catton ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định là ma tuý, có tổng khối lượng 0,045g loại Ketamine.
- Tìm thấy chất ma tuý, loại Ketamine bên trong ống hút cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 100.000đ của hộp cattton, ký hiệu M1 niêm phong gửi giám định, không xác định được khối lượng chất ma tuý.
Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện S đã điều tra làm rõ: Đêm 31/5/2024 rạng sáng ngày 01/6/2024 Nguyễn Văn T1 là nhân viên bảo vệ của quán Bar HL Clup, thôn Yên Khoái, xã Ng Yên kiêm một số nhận viên quán hát Karaoke có nhu cầu sử dụng ma tuý nên T1 gặp Ngô Văn Tr (Tr Cuội) cuãng là nhân viên của HL Clup hỏi mua của Tr 01 chỉ Ketamine và 03 viên kẹo. Tr đồng ý và báo cho T1 biết giá kẹo là 300.000đ/1 viên; giá Ketamine là 1.200.000đ/1 chỉ; tổng số tiền là 2.100.000đ, T1 đồng ý mua. Đến 01 giờ 30 phút, ngày 01/6/2024 T1 ra ngoài cửa gặp Tr mua hỏi có đồ chưa, Tr đáp: có rồi, đang để ở gốc cây bên hông cửa phụ. T1 nói Tr tiền sẽ chuyển sau. Sau đó, T1 đi ra gốc cây thấy 01 túi nilon biết là ma tuý nên cầm trên tay rồi đi xe máy về phòng trọ tại tiểu khu Hưng Đạo, thị trấn S. Trên đường về phòng trọ, T1 gọi điện cho Phạm Văn S1, sinh năm 1992; ở Tiểu khu Ng Lộ, thị trấn S bảo đến phòng trọ của T1 chơi. Về đến phòng trọ T1 đi vào phòng ngủ và thấy Phạm Ng A, sinh năm 1995, ở tại phường Tân Mai, quận Hoàng Mai, TP. H1 Nội.
Để thực hiện tổ chức sử dụng ma tuý T1 chuẩn bị đĩa sứ, cuộn tẩu bằng tờ tiền mệnh giá 100.000đ, khò lửa, bật lửa, đèn nháy, loa, thẻ cứng, chai Pépi. T1 bỏ kẹo và chỉ Ketamine ra đệm, T1 lấy viên kẹo bẻ nhỏ cho một phần vào miệng nuốt.
Tầm 05 phút sau, S1 có mặt tại phòng trọ, T1 lấy viên kẹo đưa cho S1 và S1 sử dụng hết. Tiếp theo S1 gọi cho Ngô Thị Ng Minh bảo đến phòng trọ của T1 bảo đến phòng trọ của T1 chơi uống nước, nói chuyện. Do Ng đang đi ăn đêm tại chợ huyện cùng T1 nên Ng nói T1 chở đến chỗ T1 ngồi chơi với S1. Trên đường đi Ng gọi cho Nguyễn Thị H1 rủ đến phòng trọ của T1 ngồi chơi nói chuyện. Sau khi chở Ng đến chỗ T1, T1 tiếp tục đi đón H1 cùng đi đến. Lúc này, Ng đi vào phòng ngủ thấy T1, S1, Ng A, đồng thời nhìn thấy dụng cụ sử dụng ma tuý, loa mở nhạc, đèn màu chiếu sáng, T1 đưa cho Ng 01 viên kẹo màu xám để sử dụng. Ng đưa lại viên kẹo nhờ T1 bẻ đôi, bẻ xong T1 đưa lại cho Ng. Ng không sử dụng ngay, chờ T1 chở H1 đến mới sử dụng ½ viên kẹo, còn ½ viên kẹo Ng đưa T1 sử dụng. T1 lấy đĩa dùng khò lửa để hơ đĩa, đổ Ketamine ra đĩa, dùng thẻ cứng để xào ke, cuộn tờ tiền 100.000đ thành ống hút. Xào xong ke, T1 dùng thẻ cứng kẻ Ketamine thành các đường và dùng ống hút sử dụng hết 02 đường ke, rồi để đĩa xuống đệm nói ai chơi thì chơi. Lần lượt có S1, Ng, T1, H1 tự bê đĩa ma tuý và sử dụng bằng cách dùng ống hút được cuộn sẵn bằng tờ tiền 100.000đ hít ma tuý trực tiếp qua mũi vào cơ thế. Ng sử dụng 03 lần, S1 sử dụng 02 lần, T1 sử dụng 02 lần, H1 sử dụng 02 lần. Khi T1, Ng, S1, T1, hà đang sử dụng ma tuý thì có 03 nhân viên nữ là Ph, T2, H2 cũng đến phòng trọ của T1, T2 sử dụng 02 lần, Ph và H2 không sử dụng ma tuý. Sau đó lực lượng Công an huyện S phối hợp cùng Công an thị trấn S tiến hành kiểm tra phát hiện. Các đối tượng S1, T1, H1, Ng A, Ph, T2, H2 đều khai nhận họ không biết nguồn gốc ma tuý do đâu mà có, không góp tiền mua ma tuý, không đưa trái phép chất ma tuý cho ai sử dụng.
T1 khai nhận nguồn gốc ma tuý cho mọi người sử dụng là mua của Nguyễn Văn Tr nhưng chưa thanh toán. Tại địa điểm mua ma tuý là cổng phụ của HL Clup không có camera an ninh nên không biết ai để gói ma tuý ở gốc cây, việc giao dịch mua bán bằng lời nói.
Cơ quan CSĐT tiến hành đối chất nhưng Tr không thừa nhận là người bán ma tuý cho T1, không ai chứng kiến việc giao dịch mua ma tuý giữa T1 và Tr nên không xác định được nguồn gốc số ma tuý trên là của Tr. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để xử lý Nguyễn Văn Tr trong vụ án này.
Đối với Phạm Văn S1, Trần Quốc T1, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị T2 không có hành vi đồng phạm với T1 về việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và không đưa trái phép chất ma tuý vào cơ thể của người khác. Do đó, hành vi của S1, T1, H1, T2 không cấu thành tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Quá trình xét nghiệm ma tuý S1, T1, H1, T2 đều dương tính với ma tuý. Cơ quan CSĐT Công an huyện S ban hành quyết định xử phạt hành chính đối với S1, T1, H1, T2 mỗi người là 1.500.000đ.
Đối với Phạm Ng A, dù không liên quan đến việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý ngày 01/6/2024, kết quả xét nghiệm Ng A dương tính với ma tuý loại KET. Cơ quan CSĐT Công an huyện S ban hành quyết định xử phạt hành chính đối với Ng A là 1.500.000đ.
Đối với bà Nguyễn Thị Nh, là chủ nhà trọ cho T1 thuê nhà với giá 500.000đ/tháng. Ngày 01/6/2024 T1 tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý cho nhiều người. Tại thời điểm xảy ra vụ việc, bà Nh không ở cùng, không biết T1 rủ bạn bè đến chơi và tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên không có căn cứ xử lý.
Đối với Võ Thị Tuyết Phương, Lò Thị H2 khi tổ công tác kiểm tra có mặt, nhưng hai người này không tham gia tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý và không sử dụng ma tuý, kết quả xét nghiệm âm tính với ma tuý nên không xử lý là phù hợp * Quá trình điều tra các tài sản, đồ vật thu giữ do xác định không liên quan đến hành vi phạm tội nên cơ quan CSĐT tiến hành trả lại cho chủ sở hữu, gồm:
- Trả lại cho chị Nguyễn Thị Ph (vợ bị cáo T1) 01 điện thoại di động Iphone 15 Pro Max màu xám có số IMEI 1: 35049219.740942 và số IMEI 2: 35049219.745634 gắn sim số 0855.651.xxx đã qua sử dụng.
- Trả lại cho Phạm Ng A 01 loa xách tay màu đen có chữ haran/karden (do T1 tự động lấy để bật kết nối Ng A không biết) - Trả lại cho bà Lê Thị Ng (mẹ đẻ bị cáo Ngô Thị Minh Ng) được uỷ quyền của bị cáo 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max màu vàng có số IMEI 1: 3539201.064308 và số IMEI 2: 35392010.037869 gắn sim số 0865.398.xxx đã qua sử dụng.
* Số vật chứng còn lại được chuyển đến chi cục Thi hành án dân sự huyện S bảo quản, chờ xử lý theo quy định:
- T1 bộ số ma tuý còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1.
- 01 khò lửa có chữ “HD” - 01 bình gas mini màu xanh trắng, có chữ Max Smarrt - 01 bật lửa màu đỏ có chữ 555 Vip - 01 đèn nháy màu trắng, dán giấy màu vàng có dòng chữ CLASS ILASR PRODUCT - 09 chai nhựa chứa nước, tại nắp chai được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
- 09 phong bì viền xanh đỏ bên trong có 09 que TEST thể hiện kết quả xét nghiệm ma tuý được dán kín tại xác mép dán của phong bì có chữ kým họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện S.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện S vẫn giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng số 34/CT-VKSNS, ngày 30/9/2024 đối với bị cáo Nguyễn Văn T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; bị cáo Ngô Thị Minh Ng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự, đề nghị HĐXX áp dụng:
- Điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn T1.
- Khoản 1 Điều 255; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo Ngô Thị Minh Ng.
* Về hình phạt chính, đề nghị:
- Bị cáo Nguyễn Văn T1 từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 02/6/2024.
- Bị cáo Ngô Thị Minh Ng từ 24 tháng đến 27 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 02/6/2024.
* Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên đề nghị HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 255 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo * Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy, gồm:
+ T1 bộ số ma tuý còn lại sau giám định; 01 đĩa sứ màu trắng; 02 vỏ đầu lọc điếu thuốc lá; 01 thẻ cứng màu đen đều đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1 (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định lập ngày 03/6/2024).
+ 01 khò lửa có chữ “HD” + 01 bình gas mini màu xanh trắng, có chữ Max Smarrt + 01 bật lửa màu đỏ có chữ 555 Vip + 01 đèn nháy màu trắng, dán giấy màu vàng có dòng chữ CLASS ILASR PRODUCT + 09 chai nhựa chứa nước, tại nắp chai được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
+ 09 phong bì viền xanh đỏ bên trong có 09 que TEST thể hiện kết quả xét nghiệm ma tuý được dán kín tại các mép dán của phong bì có chữ kým họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ, được đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1.
Các bị cáo Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng không có ý kiến tranh luận với VKS; các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội: khoảng 02 giờ 30 phút ngày 01/6/2024, lực lượng phòng chống ma tuý Công an huyện S phối hợp Công an thị trấn S tiến hành kiểm tra nhà trọ của Nguyễn Văn T1, tại tiểu khu Hưng Đạo, thị trấn S phát hiện, bắt quả tang tại phòng trọ có Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý cho các đối tượng, gồm: Phạm văn S1, Trần Quốc T1, Nguyễn Thị H1 và Nguyễn Thị T2. Tang vật vụ án thu giữ gồm: 01 đĩa sứ, 01 thẻ cứng GUCCCI, 01 bật lửa, 01 khò lửa, 01 bình gas, 01đèn nháy, 01 loa.
Tại phiên tòa, lời khai của các bị cáo hoàn toàn phù hợp với các lời khai tại Cơ quan điều tra, lời khai của những người làm chứng, biên bản khám xét, biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh H1 truy tố bị cáo Nguyễn Văn T1 về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự; đối với Ngô Thị Minh Ng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2] Xét tính chất, mức độ phạm tội: Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng đối với bị cáo T1 và có tính chất nghiêm trọng đối với bị cáo Ng. H1nh vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về ma túy, gây nhiều tác hại khôn lường về sức khỏe, đạo đức, lối sống, kinh tế cho con người. Các bị cáo nhận thức rõ việc làm của mình là nguy hiểm nhưng các bị cáo vẫn tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Vì vậy, cần có đường lối xử lý nghiêm đối với các bị cáo nhằm răn đe và phòng ngừa chung.
[3] Xét vị trí, vai trò của các bị cáo: Đây là vụ án với vai trò là đồng phạm giản đơn. Việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy được thực hiện tại nhà trọ của Nguyễn Văn T1. Trong đó, Nguyễn Văn T1 là người chuẩn bị địa điểm, mua ma tuý, đưa ma tuý loại MDMA cho S1, Ng sử dụng; là người trực tiếp xào ketamine và chuẩn bị ma tuý cho 05 người khác sử dụng trái phép chất ma tuý. H1nh vi phạm tội của Nguyễn Văn T1 đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” với tình tiết định khung được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Đối với Ngô Thị Minh Ng là người chủ động đưa ma tuý vào cơ thể của bản thân; ngoài ra Ng còn đưa trái phép chất ma tuý loại MDMA cho Trần Quốc T1 sử dụng nên hành vi phạm tội của Ng đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” quy định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự.
[4] Hình phạt bổ sung: Xét các bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 255 BLHS đối với các bị cáo.
[5] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Về nhân thân: Bị cáo Ng có nhân thân xấu; bị cáo T1 có nhân thân tốt.
- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo T1 phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng; bị cáo Ng phạm tội nghiêm trọng. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Mặt khác, bị cáo Nguyễn Văn T1 có ông nội là ông Nguyễn Duyên Hồng được Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tặng Kỷ niệm chương thanh niên xung phong; bà nội là Lê Thị C1 được Ban chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh tặng Kỷ niệm chương thanh niên xung phong và ban chấp hành Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tặng Huy chương vì sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Bị cáo Ng có ông ngoại là Lê Hồng Tư được Hội cựu thanh niên xung phong-Việt Nam tặng “Tám chữ vàng danh dự”, có bà nội Lê Thị Luật được Hội đồng Nhà nước chứng nhận, tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng Ba nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS.
[6] Từ những đánh giá trên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo Nguyễn Văn T1 giữ vai trò thứ nhất; bị cáo Ng giữ vai trò thứ hai. Tuy bị cáo T1 có nhân thân tốt nhưng bị cáo phải chịu 01 tình tiết định khung hình phạt là “đối với hai người trở lên” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 BLHS. Bị cáo Ng tuy chịu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 255 BLHS nhưng bị cáo lại có nhân thân xấu. Vì vậy, cần áp dụng Điều 38 BLHS, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội thời gian dài mới đủ tác dụng giáo dục, cải tạo các bị cáo thành công dân biết chấp hành pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, HĐXX xem xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; điều kiện hoàn cảnh gia đình của các bị cáo để giảm cho các bị cáo một phần hình phạt là thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật dành cho các bị cáo.
[7] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy, gồm:
+ T1 bộ số ma tuý còn lại sau giám định đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1.
+ 01 khò lửa có chữ “HD” + 01 bình gas mini màu xanh trắng, có chữ Max Smarrt + 01 bật lửa màu đỏ có chữ 555 Vip + 01 đèn nháy màu trắng, dán giấy màu vàng có dòng chữ CLASS ILASR PRODUCT + 09 chai nhựa chứa nước, tại nắp chai được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
+ 09 phong bì viền xanh đỏ bên trong có 09 que TEST thể hiện kết quả xét nghiệm ma tuý được dán kín tại các mép dán của phong bì có chữ ký họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ.
[8] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.
[9] Về án phí: Các bị cáo Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng phải nộp tiền án phí HSST theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ vào: Điểm b khoản 2 Điều 255; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với Nguyễn Văn T1).
Khoản 1 Điều 255; Điều 17; Điều 58; Điều 38; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự (đối với Ngô Thị Minh Ng).
* Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng phạm tội phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
* Xử phạt: - Bị cáo Nguyễn Văn T1 07 (bảy) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (02/6/2024).
- Bị cáo Ngô Thị Minh Ng 24 (hai bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (02/6/2024).
* Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; điểm a, c khoản 2 Điều 106 BLTTHS:
- Tịch thu tiêu hủy, gồm:
+ T1 bộ số ma tuý còn lại sau giám định; 01 đĩa sứ màu trắng; 02 vỏ đầu lọc điếu thuốc lá; 01 thẻ cứng màu đen đều đựng trong phong bì niêm phong mẫu vật do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1 (theo biên bản đóng gói, niêm phong và giao nhận lại đối tượng giám định lập ngày 03/6/2024).
+ 01 khò lửa có chữ “HD” + 01 bình gas mini màu xanh trắng, có chữ Max Smarrt + 01 bật lửa màu đỏ có chữ 555 Vip + 01 đèn nháy màu trắng, dán giấy màu vàng có dòng chữ CLASS ILASR PRODUCT + 09 chai nhựa chứa nước, tại nắp chai được niêm phong bằng giấy trắng, trên giấy có chữ ký, chữ viết của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
+ 09 phong bì viền xanh đỏ bên trong có 09 que TEST thể hiện kết quả xét nghiệm ma tuý được dán kín tại các mép dán của phong bì có chữ ký họ tên của các thành phần tham gia niêm phong và các hình dấu tròn đỏ của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S.
- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 tờ tiền mệnh giá 100.000đ được đựng trong phong bì do Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh H1 phát hành, được dán kín niêm phong bởi các chữ ký ghi rõ họ tên Nguyễn Trần Đăng, Trần Thị Thuý H2, Đinh Thế Dũng và các hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh H1 (Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/10/2024 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện S và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S, tỉnh H1).
* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: buộc bị cáo Nguyễn Văn T1, Ngô Thị Minh Ng, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.
* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 34/2024/HS-ST
Số hiệu: | 34/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/10/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về