TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BT, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 28/03/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 03 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 12/2024/TLST-HS ngày 11 tháng 03 năm 2024. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2024/QĐXXST-HS ngày 15 tháng 03 năm 2024, đối với bị cáo:
Ngân Văn B; Tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; Sinh ngày: 31/3/2003, tại xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Bầm, xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 11/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngân Văn N, sinh năm 1974 và bà Ngân Thị Th, sinh năm 1979; Vợ là Lò Thị H, sinh năm 2003; Bị cáo có 01 (một) con sinh năm 2022; Tiền án: Không; Tiền sự: Không.
Bị cáo bị giam giữ từ ngày 02/01/2024 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người liên quan: Anh Ngân Văn N, sinh năm: 1998 Trú tại: Thôn Bầm, xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 02/01/2024, tổ công tác của Công an huyện BT phối hợp với Công an xã TL, huyện BT thực hiện nhiệm vụ rà soát người nghiện, người sử dụng trái phép chất ma túy trên địa bàn xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa. Quá trình rà soát tổ công tác phát hiện Ngân Văn N, sinh năm 1998 ở thôn Bầm, xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa có biểu hiện sử dụng trái phép chất ma túy nên tổ công tác đã tiến hành kiểm tra, lấy mẫu nước tiểu để xét nghiệm. Ngân Văn N đã khai nhận: Vào tối ngày 01/01/2024, Nhiệt được Ngân Văn B tổ chức cho sử dụng hồng phiến tại nhà ở của bố mẹ Bình tại thôn Bầm, xã TL, huyện BT. Đến 12 giờ cùng ngày Ngân Văn B tự nguyện đến Công an huyện BT đầu thú khai báo về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Ngân Văn N.
Quá trình tổ chức sử dụng ma túy của Ngân Văn B được thực hiện như sau: Khoảng 20 giờ, ngày 01/01/2024 Ngân Văn B mượn xe máy của một người khách du lịch (B không biết tên tuổi, địa chỉ) một mình điều khiển xe máy đến thôn Cả, xã Ban Công, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa tìm mua hồng phiến để sử dụng. Tại đường liên thôn thuộc địa phận thôn Cả, xã Ban Công, huyện BT, Bình gặp và mua với một người đàn ông không quen biết 02 (hai) viên hồng phiến được gói bằng túi nilon màu hồng với giá 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng). Mua được hồng phiến, B cầm gói hồng phiến trên tay trái, điều khiển xe máy đi về nhà và trả xe máy cho khách du lịch. Đến khoảng 23 giờ cùng ngày, B bỏ gói hồng phiến vừa mua được vào trong túi quần B đang mặc đi vào phòng ngủ lấy 01 (một) vỏ chai nhựa dạng chai nước ngọt number1, B đục một lỗ tròn trên thân chai, 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, một tờ giấy bạc để làm dụng cụ sử dụng hồng phiến. Sau đó Bình ra ngoài vườn lấy 01 (một) ống tre cắm trên thân chai nhựa để làm ống sử dụng hồng phiến. Sau đó B cầm bộ dụng cụ sử dụng ma túy, cùng 01 (một) tờ giấy bạc và bật lửa sang phòng ngủ của anh trai là Ngân Văn N rủ Nhiệt sử dụng hồng phiến và được Nhiệt đồng ý. Bình và Nhiệt đi ra góc hiên nhà cạnh phòng ngủ của Nhiệt ngồi xuống, Bình lấy gói hồng phiến vừa mua được từ túi quần ra ngoài, bỏ 01 (một) viên hồng phiến vào giấy bạc, dùng bật lửa gas đốt hồng phiến sử dụng trước bằng bộ dụng cụ Bình chuẩn bị trước đó. Khi Bình sử dụng hết 01 (một) viên thì đưa bộ dụng cụ cho Nhiệt, rồi bỏ 01 (một) viên hồng phiền còn lại vào tờ giấy bạc, B dùng bật lửa gas đốt cho Nhiệt sử dụng. Khi Nhiệt sử dụng hồng phiến xong thì để bộ dụng cụ xuống nền nhà, B lấy bộ dụng vừa sử dụng hồng phiến, tờ giấy bạc và bật lửa gas cho vào bì đựng rác treo ở hàng rào sắt cạnh phòng ngủ của B.
Ngày 02/01/2024 Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện BT tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Ngân Văn B, phát hiện và thu giữ 01 (một) chai nhựa màu trắng, dạng chai nước ngọt number 1, trên thân chai được đục 01 (một) lỗ hình tròn, có gắn ống tre; 01 (một) mảnh giấy bạc dạng giấy bạc nướng thực phẩm có chất bám dính màu đen; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ đã qua sử dụng tại bì đựng rác treo trên hàng rào sắt cạnh phòng ngủ của Ngân Văn B Ngày 03/01/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện BT đã ra quyết định trưng cầu giám định về ma túy đối với mẫu nước tiểu thu giữ của Ngân Văn B, Ngân Văn N cùng bộ dụng cụ sử dụng ma túy thụ giữ của Ngân Văn B.
Tại bản Kết luận giám định số 97/KL-KTHS ngày 09/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: “ Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine bám dính trong 01 lọ nhựa màu trắng, dạng chai nước ngọt number 1 và 01 ống tre là các mẫu vật được niêm phong gửi giám định. Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine trong chất màu đen bám dính trên 01 ( một ) mảnh giấy bạc được niêm phong gửi giám định “.
Tại bản Kết luận giám định số 98/KL-KTHS ngày 09/01/2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận “Tìm thấy chất ma túy, loại: Methamphetamine trong mẫu nước tiểu của Ngân Văn B, Ngân Văn N niêm phong gửi giám định”.
- Vật chứng của vụ án: 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, phía trước phong bì có ghi “Phong bì niêm phong mẫu vật vụ: BT TC 09 ngày 03/01/2024”, mặt sau trên các mép được dán kín có các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tiến, Lưu Bình Nguyên, Bùi Văn Hà và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa:
Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong của phong bì niêm phong mặt trước có ghi: “Đồ vật tạm giữ của Ngân Văn Bình” và 01 (một) vỏ chai nhựa màu trắng dạng chai nước ngọt number 1; 01 (một) ống tre; 01 (một) mảnh giấy bạc dạng giấy bọc thực phẩm, là các mấẫu vậy còn lại sau khi giám định; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, đã qua sử dụng.
Tất cả vật chứng nêu trên đang được bảo quản tại kho vật chứng của công an huyện BT để xử lý theo quy định.
Tại bản cáo trạng số: 15/CT-VKSBT - MT ngày 08/03/2024, Viện kiểm sát nhân dân huyện BT đã truy tố bị cáo Ngân Văn B về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện BT vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đồng thời đề nghị HĐXX áp dụng: Khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Ngân Văn B từ 30 ( ba mươi ) tháng đến 36 ( ba sáu ) tháng tù, thời gian chấp hành hình phạt tù tính ngày ngày giam giữ 02/01/2024. Đề nghị không áp dụng hình phạt tiền bổ sung đối với bị cáo. Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 01 (một) vỏ chai nhựa màu trắng dạng chai nước ngọt number 1; 01 (một) ống tre; 01 (một) mảnh giấy bạc dạng giấy bọc thực phẩm, là các mẫu vật còn lại sau khi giám định; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, đã qua sử dụng được chứa trong 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành. Về án phí: Buộc bị cáo Ngân Văn B phải chịu 200.000 đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1]. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Ngân Văn B đã nhận tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người liên quan, vật chứng thu giữ, kết luận giám định, cùng với những tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ, ngày 01/01/2024, Ngân Văn B đã thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho Ngân Văn N bằng hoạt động: chuẩn bị ma túy, chế tạo dụng cụ sử dụng ma túy, rủ rê và cung cấp ma túy cho Ngân Văn N và giúp Ngân Văn N đưa chất ma túy vào cơ thể tại nhà ở của Bình thuộc Thôn Bầm, xã TL, huyện BT, tỉnh Thanh Hóa. Hành vi của Ngân Văn B đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện BT truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[2]. Hành vi của bị cáo mang tính chất nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của nhà nước mà còn trực tiếp xâm hại đến sức khỏe, nòi giống, nhân cách, đạo đức, lối sống con người, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an xã hội trên địa bàn. Hội đồng xét xử xét thấy, cần xét xử bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung.
[3] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo có 02 (hai) tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Thành khẩn khai báo” và “ đầu thú” được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, để bị cáo có cơ hội sửa chữa lỗi lầm, cải tạo sớm trở về đoàn tụ gia đình trở thành người công dân có ích cho xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật nhà nước ta.
[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có công việc ổn định, lao động tự do, thu nhập thấp, bản thân nghiện ma túy, nghĩ nên không phạt tiền bị cáo.
[5]. Đối với Ngân Văn N, không tham gia chuẩn bị công cụ, ma túy cùng Ngân Văn B; không thực hiện hành vi giúp người khác đưa chất ma túy vào cơ thể. Nhiệt được B cho sử dụng ma túy để thỏa mãn nhu cầu của bản thân nên hành vi của Nhiệt không cấu thành tội phạm. Ngày 25/01/2024, Công an huyện BT ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với Ngân Văn N về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là đúng quy định của pháp luật.
Đối với người đàn ông bán ma túy cho Ngân Văn B ngày 01/01/2024, B không biết tên tuổi địa chỉ. Quá trình điều tra không xác định được con người cụ thể nên không đủ căn cứ chứng minh hành vi phạm tội của người đàn ông này và sẽ xử lý khi có đủ chứng cứ chứng minh.
Đối với người khách du lịch cho B mượn xe máy, Bình không biết tên tuổi, địa chỉ. Khi mượn xe giữa Bình và người khách du lịch không có sự bàn bạc, trao đổi liên quan đến hành vi phạm tội của Bình nên không xem xét trách nhiệm hình sự cũng như xem xét xử lý đối với chiếc xe máy của người khách du lịch này.
[6]. Về xử lý vật chứng:
Đối với 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, phía trước phong bì có ghi “Phong bì niêm phong mẫu vật vụ: BT TC 09 ngày 03/01/2024”, mặt sau trên các mép được dán kín có các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tiến, Lưu Bình Nguyên, Bùi Văn Hà và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong của phong bì niêm phong mặt trước có ghi: “Đồ vật tạm giữ của Ngân Văn Bình” và 01 (một) vỏ chai nhựa màu trắng dạng chai nước ngọt number 1;
01 (một) ống tre; 01 (một) mảnh giấy bạc dạng giấy bọc thực phẩm, là các mẫu vật còn lại sau khi giám định; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, đã qua sử dụng có giá trị sử dụng không lớn nghĩ cần tịch thu tiêu hủy.
[7]. Về án phí: Bị cáo Ngân Văn B phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[8]. Về hành vi, quyết định tố tụng của điều tra viên Cơ quan điều tra Công an huyện BT và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện BT trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự và thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
* Tuyên bố: Bị cáo Ngân Văn B phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
* Áp dụng: Khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 Bộ luật Hình sự.
* Xử phạt: Ngân Văn B 27 ( hai mươi bẩy ) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày giam giữ (02/01/2024). Tiếp tục tạm giam bị cáo trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án để bảo đảm cho việc thi hành án.
* Về xử lý vật chứng: Áp dụng: Điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong do Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa phát hành, phía trước phong bì có ghi “Phong bì niêm phong mẫu vật vụ: BT TC 09 ngày 03/01/2024”, mặt sau trên các mép được dán kín có các chữ ký ghi rõ họ tên: Lê Minh Tiến, Lưu Bình Nguyên, Bùi Văn Hà và các hình dấu của phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa: Toàn bộ vỏ bao gói mở niêm phong của phong bì niêm phong mặt trước có ghi: “Đồ vật tạm giữ của Ngân Văn B” và 01 (một) vỏ chai nhựa màu trắng dạng chai nước ngọt number 1; 01 (một) ống tre; 01 (một) mảnh giấy bạc dạng giấy bọc thực phẩm, là các mẫu vật còn lại sau giám định; 01 (một) bật lửa gas màu đỏ, đã qua sử dụng.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng tài sản số: 22/2024/BB giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện BT và chi cục Thi hành án dân sự huyện BT ngày 08/03/2024).
* Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo Ngân Văn B phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo Ngân Văn B. Bị cáo Ngân Văn B được quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 14/2024/HS-ST về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 14/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bá Thước - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về