Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 14/2024/HS-ST NGÀY 30/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 165/2023/TLST-HS ngày 25 tháng 12 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2024/HSST-QĐXX ngày 10 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Võ Chí T (tên gọi khác là TQ), Giới tính: nam; Sinh ngày 01 tháng 01 năm 1983, tại tỉnh Tiền Giang. Nơi cư trú: ấp MH, xã ST, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Nghề nghiệp: không; Trình độ học vấn: 8/12; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Võ Văn Q và bà Nguyễn Thị S. Bị cáo có 01 người chị sinh năm 1979. Vợ tên Võ Thị N (đã ly hôn), có 01 người con sinh năm 2006. Sống chung như vợ chồng với Trần Thị Bá H, sinh năm 1983.

Đặc điểm nhân thân:

- Ngày 25/9/2000 bị Uỷ ban nhân dân tỉnh Tiền Giang quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng thời hạn 12 tháng (quyết định số 94/QĐ-UB), đã chấp hành xong.

- Ngày 27/11/2012 bị Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 10.000.000 đồng về tội đánh bạc theo Bản án số 111/2024/HSST. Chấp 2 hành xong ngày 25/9/2013.

Ngày 19/3/2014 bị Toà án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xử phạt 15.000.000 đồng về tội đánh bạc theo bản án số 17/2024/HSST. Chấp hành xong ngày 10/9/2014.

Tiền án: Không có. Tiền sự: Không có.

Bị cáo bị tạm giữ ngày 03/8/2023, tạm giam 06/8/2023.

Có mặt bị cáo.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Phạm Văn Th, sinh năm 1990 (vắng mặt). Trú tại: Thôn 6, xã T, huyện L, tỉnh T.

2. Võ Khoa N, sinh năm 1993 (vắng mặt). Trú tại: ấp TH, xã T T, huyện GT, tỉnh BT.

3. Châu Văn K, sinh năm 1998 (vắng mặt). Trú tại: ấp TH, xã T T, huyện GT, tỉnh BT.

4. Phan Minh T1, sinh năm 1982 (vắng mặt). Trú tại: ấp BP, xã BT, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

5. Nguyễn Thị Huyền Tr, sinh năm 1987 (vắng mặt). Trú tại: ấp MH, xã ST, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

6. Phạm Duy L, sinh năm 2005 (vắng mặt). Trú tại: Ấp Phú Hoà, xã Hoà Khánh, huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào sáng ngày 02/8/2023, Võ Chí T cùng Phan Minh T1, sinh năm 1982, nơi thường trú ấp Bình P, xã Bình T, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang và Củ M (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể) cùng đi trên xe ô tô biển số 56P – X (xe của T1) đến Thành phố Hồ Chí Minh để thăm bệnh. Khi đến Thành phố Hồ Chí Minh thì T, T1 và Củ M ăn uống tại quán ăn ven đường, lúc này T liên hệ đối tượng tên T2 (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) đến gặp, mua ma tuý với số tiền 3.000.000 đồng rồi nhờ T2 giao ma tuý cho T ở địa chỉ quán karaoke “Minh T1” tại ấp Bình P, xã Bình T, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Khi đã ăn uống xong, T điện thoại cho Phạm Văn Th, sinh năm 1990, nơi thường trú Thôn 6, xã Thành L, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá nhờ Th điều khiển xe 56P-X chở T, T1, Củ M về quán karaoke “Minh T1”. Đến khoảng 19g cùng ngày thì xe 56P-X về đến quán karaoke “Minh T1” T1, Củ M về nhà. Lúc này T nhận được ma tuý từ người nam thanh niên giao hàng (không rõ họ, tên, địa chỉ cụ thể) trước quán karaoke Minh T1 nên rủ Th vào quán để sử dụng thì Th đồng ý. Cả hai vào phòng số 5, T để ma tuý ra dĩa sành rồi cùng sử dụng. Một lúc sau, Võ Khoa N, sinh năm 1993 và Châu Văn K, sinh năm 1998 cùng thường trú ấp T1 Hoà, xã T1 Thanh, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre là nhân viên phục vụ của quán vào phòng thấy có ma tuý nên N cũng sử dụng hai lần, Kh sử dụng một lần. Đến 19 giờ 45 phút ngày 02/8/2023 Tổ công tác gồm Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý – Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội – Phòng Cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội Công an tỉnh Tiền Giang tiến hành kiểm tra phòng karaoke trên phát hiện T tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ tang vật.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra, Võ Chí T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, có thái độ ăn năn hối cải.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Vật chứng, đồ vật được thu giữ, xử lý:

- 01 (một) túi niêm phong (ký hiệu số 1) bên ngoài có các chữ ký ghi họ tên Võ Chí T và Võ Khoa N, bên trong có 01 (một) gói ny lon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu được bóp kín (loại túi zip) chứa 04 viên nén màu hồng (ký hiệu M1.1) và 01 (một) gói ny lon màu trắng, có viền màu trắng một đầu, được bóp kín (loại túi zip), chứa nhiều tinh thể màu trắng (ký hiệu M1.2). Các mẫu tinh thể M1.1, M1.2 còn lại sau giám định có khối lượng lần lượt là 1,8455 gam và 1,3691 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 147/1 ghi ngày 04 tháng 8 năm 2023.

- 01 túi niêm phong (ký hiệu số 2) bên ngoài có các chữ ký ghi họ tên Võ Chí T và Võ Khoa N, bên trong có 01 (một) gói ny lon màu trắng có viền màu đỏ một đầu được bóp kín (loại túi zip), chứa nhiều tinh thể màu trắng(ký hiệu M2). Các mẫu tinh thể M2 còn lại sau giám định có khối lượng là 0,2668 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 147/2 ghi ngày 04/8/2023.

- 01 (một) thẻ bằng nhựa màu trắng, đỏ.

- 01 (một) cái dĩa bằng sành, màu trắng hình tròn, dưới đáy có ghi chữ CnSon.

- 01 (một) tờ giấy bạc mệnh giá 20.000 đồng có số seri là ET18733679, được quấn cuộn tròn.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã ra quyết định chuyển số ma tuý còn lại sau giám định và các vật chứng trên đến Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang tiếp tục tạm giữ, chờ xử lý.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone (không kiểm tra chi tiết bên trong máy), điện thoại này là tài sản cá nhân của bị cáo Võ Chí T không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã trả lại cho T.

Tại bản kết luận giám định số 147/KL-KTHS ngày 04/8/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tiền Giang kết luận:

- Gói 1 (ký hiệu số 1): Mẫu 04 (bốn) viên nén màu hồng và mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma tuý, có tổng khối lượng 3,5006 gam (trong đó: mẫu ký hiệu M1.1 có khối lượng 2,0553 gam loại MDMA và mẫu ký hiệu M1.2 có khối lượng 1,4453 gam loại Ketamine.

- Gói 2 (ký hiệu số 2): Các mẫu tinh thể màu trắng gửi giám định là ma tuý, có khối lượng 0,3525 gam, loại Ketamine.

Tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 2,0553 gam MDMA và 1,7978 gam Ketamine.

Cáo trạng số 05/CT-VKSCT ngày 22/12/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã truy tố Võ Chí T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, - Bị cáo T khai nhận hành vi phạm tội của mình như cáo trạng Viện kiểm sát truy tố.

- Đại diện VKSND huyện Châu Thành giữ nguyên Quyết định truy tố; nêu những chứng cứ chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội; xem xét nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Đề nghị:

- Tuyên bố: Bị cáo Võ Chí T phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

- Đề nghị áp dụng: khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 32, Điều 38, Điều 50, điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

- Đề nghị xử phạt: Bị cáo Võ Chí T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ là ngày 03/8/2023.

Lời nói sau cùng của các bị cáo: Ăn năn hối cải về hành vi của mình, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện lo cho con và cha mẹ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các tài liệu, chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị hại, những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt, nhưng những người này đã có lời khai trong quá trình điều tra và việc vắng mặt này không gây trở ngại cho việc xét xử nên căn cứ Điều 292 Bộ luật Tố tụng hình sự, Toà án tiến hành xét xử vụ án.

[3] Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với biên bản khám nghiệm hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào lúc 19 giờ 45 phút ngày 02/8/2023, tại phòng số 5 của quán karaoke Minh T1 thuộc ấp Bình P, xã Bình T, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang, bị 6 cáo Võ Chí T đã có hành vi lấy ma tuý loại Ketamine từ túi ny lon ra dĩa hình tròn bằng sành, dùng tờ tiền polyme loại mệnh giá 20.000 đồng cuộn tròn. Sau đó bị cáo đốt dưới đáy đáy dĩa sành cho nóng lên để cùng đối tượng Th sử dụng thì bị lực lượng Công an phát hiện và bắt quả tang, tổng khối lượng ma tuý thu giữ là 2,0553 gam MDMA và 1,7978 gam Ketamine. Hành vi nêu trên của bị cáo T đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 255 Bộ luật hình sự. Do đó, truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến những quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội. Ma túy là chất gây nghiện, khi sử dụng không những gây tác hại cho sức khoẻ, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm và các tệ nạn xã hội khác. Do vậy, cần phải có mức hình phạt nghiêm mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội nên xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là “Người phạm tội thành khẩn khai báo” theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015 bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Xét thấy bản thân bị cáo là đối tượng không có công việc và thu nhập ổn định nên HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Toàn bộ số ma tuý thu được tại hiện trường phòng số 5 của quán karaoke Minh T1, 01 (một) thẻ bằng nhựa màu trắng, đỏ; 01 (một) cái dĩa bằng sành, màu trắng hình tròn, dưới đáy có ghi chữ CnSon. Đây là các công cụ sử dụng trực tiếp vào việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, không còn giá trị sử dụng nên cần 7 tịch thu tiêu huỷ.

- 01 (một) tờ giấy bạc mệnh giá 20.000 đồng đây là công cụ sử dụng trực tiếp vào việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý tịch thu nộp ngân sách Nhà nước.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone (không kiểm tra chi tiết bên trong máy), điện thoại này là tài sản cá nhân của bị cáo Võ Chí T không liên quan đến hành vi phạm tội, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã trả lại cho T là phù hợp.

[7] Về nguồn gốc số ma tuý thu giữ, T khai nhờ người tên T3 mua dùm và cho người giao hàng giao tới quán karaoke Minh T1. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã xác minh nhưng không xác định được nhân thân của người bán và người giao hàng nên không có cơ sở điều tra, xác minh.

[8] Đối với Phan Minh T1 là chủ quán karaoke và Nguyễn Thị Huyền Tr là người quản lý quán nhưng không biết việc T mua, tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành không xem xét trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp sử dụng trái phép chất ma tuý. Đối với T1 là chủ cơ sở kinh doanh karaoke Minh T1 để xảy ra hoạt động tàng trữ, sử dụng trái phép chất ma tuý do mình quản lý không kiểm tra nên Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Đối với các đối tượng Phạm Văn Th không hùn tiền mua ma tuý, không biết việc T mua ma tuý và cũng không rủ rê ai cùng sử dụng ma tuý nên không xử lý trách nhiệm hình sự đối với Th. Đối với Võ Khoa N, Châu Văn K, Phạm Duy L không thừa nhận cung cấp dĩa sành cho T để sử dụng, tổ chức cho người khác sử dụng trái phép chất ma tuý nên không đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với N và K. Cơ quan Công an huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma tuý đối với Th, N, K là phù hợp quy định của pháp luật.

[10] Xét đề nghị truy tố của đại diện Việt kiểm sát đối với bị cáo Võ Chí T là có căn cứ và phù hợp với nhận định nêu trên của Hội đồng xét xử nên chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[11] Về án phí: Bị cáo Võ Chí T phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định tại khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[12] Về quyền kháng cáo: Bị cáo Võ Chí T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Võ Chí T phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; Điều 32, Điều 38, Điều 50; điểm a, b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự;

điểm a, b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng Hình sự; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí, lệ phí; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

3 - Xử phạt bị cáo Võ Chí T 03 năm tù (ba năm tù) về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 03/8/2023.

4. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, 48 Bộ luật hình sự; điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 4.1 – Tịch thu tiêu huỷ:

+ 01 (một) túi niêm phong (ký hiệu số 1) bên ngoài có các chữ ký ghi họ tên Võ Chí T và Võ Khoa N, bên trong có 01 (một) gói ny lon màu trắng, có viền màu đỏ một đầu được bóp kín (loại túi zip) chứa 04 viên nén màu hồng (ký hiệu M1.1) và 01 (một) gói ny lon màu trắng, có viền màu trắng một đầu, được bóp kín (loại túi zip), chứa nhiều tinh thể màu trắng (ký hiệu M1.2). Các mẫu tinh thể M1.1, M1.2 còn lại sau giám định có khối lượng lần lượt là 1,8455 gam và 1,3691 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 147/1 ghi ngày 04 tháng 8 năm 2023.

- 01 túi niêm phong (ký hiệu số 2) bên ngoài có các chữ ký ghi họ tên Võ Chí T và Võ Khoa N, bên trong có 01 (một) gói ny lon màu trắng có viền màu đỏ một đầu được bóp kín (loại túi zip), chứa nhiều tinh thể màu trắng(ký hiệu M2).

Các mẫu tinh thể M2 còn lại sau giám định có khối lượng là 0,2668 gam được niêm phong trong bì thư ký hiệu vụ số 147/2 ghi ngày 04/8/2023.

- 01 (một) thẻ bằng nhựa màu trắng, đỏ.

- 01 (một) cái dĩa bằng sành, màu trắng hình tròn, dưới đáy có ghi chữ CnSon.

4.2 – Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền Việt Nam là 20.000 đồng.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 25/12/2023 bên giao là Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện Châu Thành, Tiền Giang với bên nhận là Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, Tiền Giang).

5. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành ngày 30/12/2016. Buộc bị cáo Võ Chí T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

6. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự:

6.1 - Bị cáo Võ Chí T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

6.2 - Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo phần bản án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo qui định của pháp luật.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

30
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 14/2024/HS-ST

Số hiệu:14/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;