Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 136/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 136/2022/HS-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang đã mở phiên tòa xét xử công khai vụ án hình sự thụ lý số 68/2022/HSST ngày 23 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử 55/2022/QĐXXST - HS ngày 01 tháng 3 năm 2022; Thông báo thay đổi thời gian xét xử vụ ngày 23/3/2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 30/QĐST-HS gày 07/4/2022 đối với:

Bị cáo Phan Đại H, sinh năm 1989 tại Khánh Hòa; nơi đăng ký hộ khẩu: Tổ X, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phan Hùng N (chết) và bà Phạm Thị Th; có vợ là Đỗ Thị T; có 02 con, sinh năm 2015 và 2018; tiền sự, tiền án: không; bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 07/9/2021; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Đỗ Mạnh C; nơi cư trú: Đường N, phường T, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

2. Anh Nguyễn Quốc T; nơi cư trú: Số T, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

3. Anh Mai Quốc Đ; nơi cư trú: Số X, phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

4. Anh Nguyễn Mạnh H; nơi cư trú: phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

5. Anh Hồ Quốc Th; nơi cư trú: Số phường V, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 00 giờ 40 phút ngày 08/8/2020, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an thành phố N tiến hành kiểm tra cơ sở kinh doanh Vũ trường Q có địa chỉ tại đường T, phường L, thành phố N. Lúc này, tại bàn Vip 02 có 06 đối tượng, gồm: Phan Đại H, Đỗ Mạnh C, Mai Quốc Đ, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Mạnh C và Hồ Quốc Th.

Tổ công tác phát hiện dưới sàn nhà nơi H đang ngồi có 02 viên nén màu hồng, không rõ hình dạng (được niêm phong, ký hiệu A); trên bàn có 01 dĩa nhựa màu trắng, trên dĩa có chất bột màu trắng (được niêm phong, ký hiệu B); 01 tờ tiền, mệnh giá 100.000 đồng cuộc tròn thành ống hút và 01 thẻ card Vietcombank mang tên Nguyễn Quốc Th. Lúc này, Phan Đại H cùng các đối tượng thừa nhận các viên nén màu hồng và chất bột màu trắng là ma túy dạng “thuốc lắc” và ma túy dạng “khay” của Hải mua cho cả nhóm sử dụng.

Tổ công tác tiến hành niêm phong, thu giữ toàn bộ tang vật và đưa tất cả các đối tượng về trụ sở làm việc.

Tại Bản kết luận giám định số 506/GĐTP ngày 13/8/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Khánh Hòa kết luận:

- Các viên nén màu hồng trong mẫu ký hiệu A gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng 0,7079g, là loại MDMA.

- Chất bột màu trắng trong mẫu ký hiệu B gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,2062g, là loại Ketamine.

Quá trình điều tra, xác định: khoảng 22 giờ 00 phút ngày 07/8/2020, sau khi Phan Đại H và Mai Quốc Đ “nhậu” xong thì Hải gọi điện thoại rủ Nguyễn Quốc Th đến vũ trường Q để tổ chức sinh nhật cho Th, Th đồng ý. Sau đó, Phan Đại H rủ thêm Nguyễn Mạnh H, Nguyễn Quốc Th rủ thêm Đỗ Mạnh C và Hồ Quốc Th.

Tại vũ trường Q, sau khi cùng Đ thuê bàn Vip02, H đi ra ngoài khu vực phía trước vũ trường, mượn điện thoại di động của một nam thanh niên gọi vào số điện thoại 0984662184 của một đối tượng (không xác định được nhân thân, lai lịch) hỏi mua 2.000.000 đồng ma túy thì được người này đồng ý và hẹn giao ma túy ở khu vực chân cầu X, thành phố N. Khi đến điểm hẹn, Hải đưa số tiền 2.000.000 đồng cho một thanh niên (không xác định được nhân thân, lai lịch) và lấy ma túy ở gần thùng rác, gồm có: 01 bịch nylon màu đen, bên trong có 04 viên ma túy “thuốc lắc” và 01 chấm ma túy “khay”. Sau khi có được ma túy, Hải quay trở về bàn Vip02, vũ trường Q để chơi cùng với các đối tượng còn lại. Tại đây, Phan Đại H lấy ra một bịch “ma túy khay” đổ ra dĩa nhựa, mượn thẻ card Vietcombank của Nguyễn Quốc Th để trộn ma túy, rồi để trên bàn, cho mọi người sử dụng. Đồng thời, H lấy hai viên nén ma túy “thuốc lắc”, chia nhỏ, đưa cho Đỗ Mạnh C, Nguyễn Mạnh H, Hồ Quốc T, Nguyễn Quốc Th cùng sử dụng. Sau đó, cả nhóm tiếp tục ngồi nghe nhạc và uống bia cho đến khi bị Tổ công tác phát hiện. Đối với hai viên ma túy “thuốc lắc” còn lại, chưa kịp sử dụng hết thì bị Tổ công tác vào kiểm tra nên Phan Đại H lo sợ, đã vứt xuống dưới sàn.

Khi bị Tổ công tác phát hiện và đưa về trụ sở làm việc, lời khai của Phan Đại Hải phù hợp với lời khai của các đối tượng Đỗ Mạnh C, Mai Quốc Đ, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Mạnh H và Hồ Quốc Th. Tuy nhiên, sau đó trong quá trình điều tra, Phan Đại H không thừa nhận hành vi phạm tội.

Quá trình điều tra, xác định Mai Quốc Đ không sử dụng ma túy.

Tại bản Cáo trạng số 323/2021/CT-VKS-NT ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã truy tố bị cáo Phan Đại Hải về tội “Tổ chức sử dụng trái phép phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang thực hành quyền công tố vẫn giữ nguyên nội dung đã truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Phan Đại H mức 08 năm đến 09 năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Về xử lý vật chứng: Xử lý theo quy định của pháp luật; tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa bị cáo Phan Đại H không thừa nhận hành vi phạm tội, cho rằng bị cáo bị oan.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do. Xét thấy, việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án. Căn cứ Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử xét xử vụ án theo thủ tục chung.

[2] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên cũng như của các cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên và của các cơ quan tố tụng đã thực hiện là hợp pháp, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về hành vi phạm tội:

Tại phiên tòa bị cáo Phan Đại H cho rằng: Bị cáo chỉ sử dụng ma túy, bị cáo không tổ chức cho ai sử dụng ma túy, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Tại biên bản lấy lời khai lúc 08 giờ 00 ngày 08 tháng 8 năm 2020 bị cáo H khai “…tôi có mượn điện thoại của một người đàn ông đi đường (không biết lai lịch) gọi vào số 0984.662.184 của một người thanh niên (tôi không rõ lai lịch mà được một người bạn bên ngoài xã hội cho) để hỏi mua ma túy. Sau khi thống nhất giá cả, tôi đến chân cầu X thì thấy một thanh niên bịt mặt, đứng cách xa. Người thanh niên này nói tôi ma túy ở gần thùng rác dưới chân cầu hướng về đường Trần P. Tôi quăng 2.000.000 đồng (hai triệu đồng) cho người thanh niên rồi đến thùng rác thì thấy 01 bịch nylon màu đen, mở ra bên trong có 01 (một) bịch chấm ma túy “khay” và 04 (bốn) viên ma túy “thuốc lắc” màu hồng. Tôi cầm về vũ trường để cả nhóm sử dụng..”. Biên bản lấy lời khai này có sự chứng kiến chị Đỗ Thị T là vợ của bị cáo. Cuối biên bản ghi lời khai bị cáo và chị T có ký và xác nhận biên bản ghi đúng lời khai của bị cáo, không ai ép buộc (BL 35).

Tương tự tại biên ghi lời khai vào lúc 09 giờ 30 phút ngày 08/8/2020; các bản tự khai ngày 08/8/2020; bản tự khai ngày 21/8/2020 (BL số 37-38; 40-43); biên bản hỏi cung bị can ngày 15/10/202 (BL 166-167) bị cáo cũng xác định bị cáo tự bỏ tiền ra, tự đi mua ma túy về cho cả nhóm sử dụng. Không ai trong nhóm bỏ tiền ra. Bị cáo tự xác định khi được cơ quan điều tra lấy lời khai thì bị cáo hoàn toàn minh mẫn, tỉnh táo, các biên bản lấy lời khai đều có chữ ký của bị cáo vào các trang, cuối biên bản lấy lời khai bị cáo có viết bị cáo đã tự đọc lại biên bản, biên bản ghi đúng lời khai của bị cáo, bị cáo tự nguyện khai báo không ai ép buộc, ký và ghi rõ họ tên.

Lời khai của bị cáo là hoàn toàn phù hợp với lời khai của Nguyễn Quốc Th (BL 57-58; 59-60; 61-62; 65-67), Đỗ Mạnh C (BL 73-74; 75, 77, 78) Nguyễn Mạnh H (90-91; 92, 94, 95) Hồ Quốc T (BL 109, 111-112, 113, 114, 201-202) và Mai Quốc Đ (BL 130-132) phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lúc 00 giờ 40 phút ngày 08/8/2020; biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu; biên bản mở niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định; Kết luận giám định số 506/GĐ- GT/2020 ngày 13/8/2020 và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cũng như qua phần xét hỏi, tranh luận công khai tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận vào lúc khoảng 22 giờ 00 phút ngày 07/8/2020, Phan Đại H đã mua 04 (bốn) viên ma túy, loại MDMA và một chấm “khay” loại Ketamine của một thanh niên tại chân cầu T với giá 2.000.000 đồng. Sau đó, H mang về ban Vip 02 thuộc cơ sở kinh doanh Vũ trường Q có địa chỉ tại đường T, phường L, thành phố N. Tại đây, H đã cung cấp trái phép chất ma túy cho Đỗ Mạnh C, Nguyễn Quốc T, Nguyễn Mạnh H và Hồ Quốc T sử dụng thì bị phát hiện quả tang.

Tại phiên tòa trước (ngày 14/01/2022) bị cáo có lúc khai nguồn gốc ma túy là do Đỗ Mạnh C đi mua về, và Hồ Quốc T là người đem ma túy cho bị cáo sử dụng. Tại phiên tòa hôm nay (ngày 28/4/2022) bị cáo lại khai không biết ai mua ma túy, bị cáo chỉ là người sử dụng. Như vậy, có thể nhận thấy lời khai của bị cáo tại các phiên tòa là mâu thuẫn với chính lời khai của bị cáo có trong hồ sơ vụ án, mâu thuẫn với lời khai của những người làm chứng. Các tài liệu chứng cứ đã được cơ quan điều tra, Viện kiểm sát thực hiện đúng quy định của pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận bị cáo bị oan.

Từ đó, có đủ cơ sở để khẳng định hành vi phạm tội của bị cáo đã cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số 323/CT-VKSNT ngày 14 tháng 10 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nha Trang truy tố bị cáo phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[4] Đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý về chất ma túy của Nhà nước. Bị cáo nhận thức rõ chất ma túy bị pháp luật cấm nhưng vẫn mua để tổ chức cho những người khác sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo còn là nguyên nhân phát sinh một số loại tội phạm khác, gây mất an ninh, trật tự tại địa phương. Tại phiên tòa bị cáo quanh co, không thừa nhận hành vi phạm tội của mình, nên bị cáo không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm minh, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo, cũng như phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội. Tuy nhiên, về nhân thân bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ hình phạt quy định tại điểm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015. Hội đồng xét xử giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật mà an tâm cải tạo sớm về với gia đình và trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về xử lý vật chứng: 01 dĩa nhựa màu trắng; 01 thẻ card ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Quốc T; 01 tờ tiền polime mệnh giá 100.000 Việt Nam đồng, được quấn thành hình tròn. Đây là công cụ dùng để sử dụng ma túy, nhận thấy, cần tịch thu số tiền 100.000 đồng sung công quỹ Nhà nước, tịch thu tiêu hủy 01 đĩa nhựa màu trắng. Riêng 01 thẻ card ngân hàng Vietcombank ngân hàng thì không cần thiết tịch thu tiêu hủy mà cần trả lại cho anh Nguyễn Quốc T.

[6] Về một số vấn đề khác:

[6.1] Đối với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Đỗ Mạnh C, Nguyễn Quốc T, Hồ Quốc T và Nguyễn Mạnh H không phải là hành vi phạm tội, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an thành phố Nha Trang đã ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính là đúng quy định.

[6.2] Quá trình điều tra, xác định mục đích của Nguyễn Quốc T rủ Hồ Quốc T và Đỗ Mạnh C đến chơi vũ trường Q là để cùng uống bia, nghe nhạc, không phải để tham gia sử dụng trái phép chất ma túy nên không có cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự của Nguyễn Quốc T về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

[6.3] Kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát tiếp tục điều tra, xác minh đối tượng có sử dụng số điện thoại 0984662184 để xử lý theo đúng quy định.

[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Phan Đại Hải (tên gọi khác: Tony) 08 (tám) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 07/9/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015:

2.1. Tịch thu tiêu hủy: 01 dĩa nhựa màu trắng.

2.2. Trả lại cho anh Nguyễn Quốc T: 1 thẻ card ngân hàng Vietcombank mang tên Nguyễn Quốc T.

2.3. Tịch thu sung ngân sách nhà nước số tờ tiền 100.000 đồng (một trăm ngìn đồng).

Số vật chứng tịch thu tiêu hủy, trả lại cho và tịch thu nộp ngân sách theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 09/12/2021 giữa Chi cục thi hành án dân sự thành phố Nha Trang với Công an thành phố Nha Trang.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

616
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 136/2022/HS-ST

Số hiệu:136/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;