TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 124/2024/HS-PT NGÀY 24/09/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 24 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 117/2024/TLPT-HS ngày 31 tháng 7 năm 2024, đối với các bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P và Nguyễn Thanh B, do có kháng cáo của các bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2024/HS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
Các bị cáo có kháng cáo:
1. Đỗ Khắc T, sinh ngày 22 tháng 7 năm 1991, tại: Khánh Hòa; nơi cư trú: Số B V, phường N, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đỗ Khắc Đ và bà Trần Kim T1; có vợ và có 02 (hai) người con.
Tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam.
Vắng mặt tại phiên tòa và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.
2. Nguyễn Hữu Thanh P (tên gọi khác là côca), sinh ngày 20 tháng 3 năm 1991, tại: Khánh Hòa; nơi cư trú: Thôn V, xã S, huyện C, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hữu V và bà Phạm Thị Thu T2. Chưa có vợ, con.
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.
3. Nguyễn Thanh B, sinh ngày 27 tháng 3 năm 1992, tại: Khánh Hòa; nơi cư trú: Số nhà B đường T, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn X và bà Trương Thị Thanh T3. Có vợ và có 02 (hai) người con.
Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Không.
Bị cáo không bị tạm giữ, tạm giam.
Vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt Trong vụ án còn có bị cáo Lê Thị Minh H không có kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị.
Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P:
1. Ông Nguyễn Trần Minh T4 - Luật sư Văn phòng L – Chi nhánh N1, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
Có mặt tại phiên tòa.
2. Ông Nguyễn Trọng N - Luật sư Văn phòng L – Chi nhánh N1, thuộc Đoàn Luật sư thành phố H.
Có mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 30 tháng 12 năm 2020, Tổ công tác của Công an thành phố N phối hợp cùng Công an phường P tiến hành kiểm tra quán K, tại số B đường V, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Trong phòng số 306, phát hiện có 07 người gồm: Đỗ Khắc T, Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hữu Thanh P, Lê Thị Minh H, Bùi Hữu T5, Nguyễn Thị Kim H1 và Trần Ngọc Trúc Q; trên bàn có 01 đĩa sứ màu trắng có một ít chất bột màu trắng và 01 bịch nylon hàn kín - kích thước (2,5x4)cm, bên trong chứa chất tinh thể màu trắng (tất cả được niêm phong, ký hiệu VIP306); 01 tờ tiền Polymer mệnh giá 50.000 Việt Nam đồng được quấn thành ống hút và 01 thẻ ATM V1 mang tên “Bui H”. Tổ công tác tiến hành thu giữ tất cả tang vật và đưa các đối tượng về làm việc.
Quá trình điều tra, xác định: H và T5, T và Q, B và H1 là vợ chồng. Khoảng 20 giờ 00 phút ngày 29 tháng 12 năm 2020, sau khi đi dự đám cưới, H, T5, T, P cùng đi “nhậu” tại quán C trên đường T, phường L, thành phố N. Trong cuộc “nhậu”, cả nhóm thống nhất cùng đi đến quán K để hát Karaoke và sử dụng ma túy. Sau đó, T điều khiển xe về chở Q. Trên đường đi, Q nhắn tin rủ H1 đến chơi thì H1 đồng ý và cùng B đi đến điểm hẹn.
Tại quán K, cả nhóm thuê phòng số 306 để hát karaoke. Trong quá trình hát karaoke, một thanh niên (chưa rõ lai lịch) đi vào phòng mời cả nhóm mua ma túy “khay” sử dụng với giá 3.900.000 đồng (ba triệu chín trăm nghìn đồng). Lúc này, tất cả đều thống nhất mua ma túy sử dụng, số tiền mua ma túy sẽ chia đều cho H, B, T và P, những người còn lại không phải góp tiền và H sẽ là người ứng tiền mua ma túy; B, T và P sẽ trả lại cho H sau. Sau khi có ma túy, H lấy thẻ ATM mang tên “BUI HUU THO” từ trong ví của T5 ra để trên bàn, B trích ra một ít ma túy “khay” đổ ra đĩa sứ trắng trên bàn rồi dùng thẻ ATM “xào” ma túy. Khi cả nhóm đang sử dụng ma túy thì bị phát hiện, bắt giữ. Riêng Q không sử dụng vì đang mang thai.
Tại Bản kết luận giám định số 57/GĐTP/2021 ngày 06 tháng 01 năm 2021, Phòng K1 - Công an tỉnh K kết luận: Mẫu vật ký hiệu VIP 306 gửi giám định là ma túy, loại Ketamine, có khối lượng 1,6766g.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2024/HS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024, Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đã quyết định: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Đỗ Khắc T, Nguyễn Hữu Thanh P và Nguyễn Thanh B mỗi bị cáo 7 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, cùng về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn xử phạt bị cáo Lê Thị Minh H 7 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; quyết định về vật chứng, án phí và quyền kháng cáo.
Trong các ngày 13, 20 và 22 tháng 5 năm 2024, lần lượt các bị cáo Nguyễn Thanh B, Nguyễn Hữu Thanh P và Đỗ Khắc T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giảm hình phạt.
Ngày 09 tháng 9 năm 2024, bị cáo Nguyễn Thanh B rút kháng cáo. Ngày 23 tháng 9 năm 2024, bị cáo Đỗ Khắc T rút kháng cáo.
Phát biểu quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Khánh Hòa về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử:
- Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T đã rút.
- Giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P.
Trình bày lời bào chữa, các Luật sư Nguyễn Trần Minh T4 và Nguyễn Trọng N đề nghị Hội đồng xét xử giảm hình phạt cho bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P, do: Bị cáo có vai trò hạn chế, đang nuôi cha đẻ là người khuyết tật nặng; trong thời gian phục vụ quân đội có thành tích được tặng thưởng danh hiệu Chiến sỹ tiên tiến.
Trình bày lời bào chữa và nói lời sau cùng, bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P nhất trí với quan điểm của các Luật sư và đề nghị được giảm hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Về thủ tục tố tụng:
1.1. Kháng cáo của các bị cáo được thực hiện trong thời hạn kháng cáo nên nội dung kháng cáo của các bị cáo được cấp phúc thẩm xem xét.
1.2. Riêng đối với các bị cáo Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T, sau khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử các bị cáo đã tự nguyện rút kháng cáo, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phúc thẩm và không xem xét kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T.
[2]. Xét trách nhiệm hình sự của bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P:
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P đã khai nhận những hành vi mà bị cáo đã thực hiện đúng như bản án sơ thẩm đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của các bị cáo và người tham gia tố tụng khác trong vụ án cùng với các chứng cứ có trong hồ sơ do Cơ quan Cảnh sát điều tra thu thập được. Do đó, đủ cơ sở để kết luận:
Ngày 30 tháng 2 năm 2020, tại phòng số 306 quán K, địa chỉ: số B - B đường V, phường P, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa, Nguyễn Hữu T6 P cùng với Lê Thị Minh H và Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T đã có hành vi cùng nhau góp tiền mua ma túy cùng sử dụng và cung cấp ma túy cho Bùi Hữu T5 và Nguyễn Thị Kim H1 sử dụng.
Hành vi đó của bị cáo đã có đủ các yếu tố cần thiết cấu thành tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.
Hành vi của bị cáo là rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy. Ngoài ra, còn xâm hại trật an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm khắc, cách ly xã hội mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và ngăn ngừa chung. Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang sau khi xem xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với các bị cáo là đúng pháp luật.
Tuy vậy, Nguyễn Hữu Thanh P có nhân thân tốt, trong thời gian phục vụ quân đội tại Tiểu đoàn 872 Vùng 4 Hải quân được tặng thưởng danh hiệu Chiến sỹ tiên tiến. Hiện tại bị cáo đang là người trực tiếp chăm sóc cha đẻ là người khuyết tật nặng. Tòa án cấp phúc áp dụng thêm các tình tiết này giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt, để bị cáo thấy được sự khoan hồng của Nhà nước mà tích cực cải tạo.
[3]. Về án phí:
Bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào Điều 343, Điều 345; các khoản 1 và 2 Điều 348; các điểm b và đ khoản 1 và khoản 2 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự,
1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của các bị cáo Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T.
Bản án hình sự sơ thẩm số 109/2024/HS-ST ngày 08 tháng 5 năm 2024 của Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa đối với các bị cáo Nguyễn Thanh B và Đỗ Khắc T có hiệu lực kể từ ngày ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.
2. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P, Sửa Bản án sơ thẩm:
- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P 7 (bảy) năm tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.
3. Về án phí:
Bị cáo Nguyễn Hữu Thanh P không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án (ngày 24 tháng 9 năm 2024).
Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 124/2024/HS-PT
Số hiệu: | 124/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 24/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về