Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÒA BÌNH, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 11/2022/HS-ST NGÀY 24/00/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 24 tháng 01 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hòa Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2022/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 09/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. BÙI ANH T, sinh năm 1986; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: tổ 04, phường TT, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Bùi Trung K và mẹ là Nguyễn Thị H; Có vợ là Nguyễn Thị H và 01 con sinh năm 2019; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 14/5/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

2. NGUYỄN THỊ H, sinh năm 1992; Giới tính: Nữ; Nơi ĐKHKTT: xã CL, huyện HH, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: tổ 06, phường TT, thành phố Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 09/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Nguyễn Đình Th và mẹ là Nguyễn Thị Ph; Có chồng là Nguyễn Quý T (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2012; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ hai; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 14/5/2021 đến 22/5/2021 được tại ngoại có mặt tại phiên tòa.

3. LẠI CÔNG TUẤN A, sinh năm 1997; Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT: thôn V, xã TN, huyện TT, tỉnh Thái Bình. Chỗ ở: tổ 07, phường QL, thành phố Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hoá: 11/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Có bố là Lại Công Ch và mẹ là Đỗ Thị H; Có vợ là Phạm Hồng Nh và 01 con sinh năm 2019. Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ 19/5/2021 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hòa Bình, được trích xuất có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

1. Anh Nguyễn Duy T1, sinh năm 1984 ĐKHKTT: thôn LĐ, xã HT, huyện Mỹ Đức, Hà Nội. (vắng mặt)

2. Anh Nguyễn Việt D, 1982 ĐKHKTT: tổ 05, phường TT, TP Hòa Bình, Hòa Bình. (vắng mặt)

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Đức H1, sinh năm 1983 Trú tại: tổ 09, phường PL, TP Hòa Bình, Hòa Bình. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tối ngày 13/5/2021 Bùi Anh T mời Nguyễn Đức H1, Nguyễn Việt D và Nguyễn Thị H đến nhà ăn cơm. Sau khi ăn cơm xong và ngồi uống nước T rủ H1, D, H đi hát và sử dụng ma túy, cả ba đồng ý. Do có con nhỏ nên H đi về trước để gửi con, còn T, H1, D ngồi lại uống nước. Một lúc sau T nhắn tin cho H nói đã tìm được phòng hát nhưng cả T, D, H1 đều không có tiền nên T bảo H ứng số tiền 5.000.000 đồng ra trước để mua ma túy cho cả nhóm, hôm sau sẽ chia đều rồi T, D, H1 sẽ trả cho H, H đồng ý. H thống nhất sẽ mời T, còn phàn tiền chia với D, H1, T có trách nhiệm thu lại rồi trả H sau. Sau đó H1 điều khiển xe ô tô BKS 28A – X chở T, D đi đến nhà đón H. Lúc H lên xe, được sự đồng ý T lấy điện thoại của H chuyển từ tài khoản của H vào tài khoản Ngân hàng A của T số tiền 5.000.000 đồng rồi cả nhóm đi sang quán karaoke B để hát và sử dụng má túy. Khoảng 20 giờ cùng ngày, khi đến quán B, do H1 có việc nên lái xe về nhà còn T, D, H đi lên phòng 301 hát trước do Tuấn A sắp xếp. Tại đây T gọi điện cho 01 người phụ nữ không biết tên để mua 04 viên thuốc lắc (MDMA), 01 chỉ Ketamine với giá 4.000.000 đồng. Một lát sau, có một người đàn ông mang ma túy đến quán để đưa cho T. Do quá trình chuyển tiền từ tài khoản của H sang tài khoản của T chưa thông báo thành công nên T mượn điện thoại của H đặt vấn đề cầm cố chiếc điện thoại trên cho Lại Công Tuấn A lấy 4.000.000 đồng tiền mặt trả tiền mua ma túy. Tuấn A đồng ý. Do không đủ số tiền 4.000.000 đồng nên Tuấn A đã trả trực tiếp cho người đàn ông mang ma túy đến quán số tiền 3.500.000 đồng. Sau đó T cầm bao thuốc lá bên trong có chứa ma túy từ người đàn ông lên phòng 301 cho H, D cùng sử dụng. T đưa cho H, D mỗi người 01 viên thuốc lắc (MDMA), cả hai đã sử dụng xong. Trong quá trình ở phòng hát T ra hành lang gọi Tuấn A mang cho 01 đĩa sứ , 01 bật lửa, 01 card điện thoại và giấy ăn lên phòng, Tuấn A đồng ý và mang lên phòng 301. Sau đó T là người trực tiếp “xào ke” rồi để lên bàn trong phòng hát cho mọi người sử dụng. Lát sau H1 đến phòng hát, T đưa cho H1 01 viên thuốc lắc, H1 đã sử dụng xong. Trong quá trình nghe nhạc tại phòng hát cả T, H, D, H1 đều sử dụng ketamine. Đến khoảng 23 giờ 30’ cùng ngày tổ công tác Công an thành phố Hòa Bình đã tiến hành kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ cùng tang vật.

Bản kết luận giám định số: 148/KLGĐ-CAT-PC09 ngày 25/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hòa Bình kết luận:

“Trong ni lông ký hiệu Túi 1 trong phong bì niêm phong gửi giám định có bám dính chất bột màu xanh, chất bám dính là ma túy, loại MDMA; Trong túi ni lông ký hiệu Túi 2 trong phong bì niêm phong gửi giám định có bám dính chất bột màu trắng, chất bám dính là ma túy, loại Ketamine” Kết quả xét nghiệm máu ngày 14/5/2021 của các đối tượng xác định: Bùi Anh T, Nguyễn Đức H1, Nguyễn Việt D và Nguyễn Thị H đều dương tính với ma túy.

Cáo trạng số: 10/CT-VKS ngày 05/01/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hoà Bình truy tố Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội như cáo trạng truy tố.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hòa Bình giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình để xử phạt Bùi Anh T từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 Bộ luật hình sự để xử phạt Nguyễn Thị H từ 30 đến 36 tháng tù.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình để xử phạt Lại Công Tuấn A từ 30 đến 36 tháng tù.

Đều về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và đề nghị xử lý vật chứng theo quy định.

Các bị cáo không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng: các bị cáo đã nhận thức được hành vi phạm tội của bản thân và xin được hưởng mức án thấp nhất để làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an TP Hòa Bình, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân TP Hòa Bình, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi các bị cáo đã thực hiện:

Tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau và phù hợp lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu được, kết luận giám định cũng như các tài liệu, chứng cứ đã thu giữ, nên có căn cứ xác định: Ngày 13/5/2021, các bị cáo Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A đã có hành vi tổ chức cho mình và những đối tượng khác gồm Nguyễn Đức H1, Nguyễn Việt D sử dụng trái phép ma túy tổng hợp (Ketamine, MDMA) tại phòng 301 quán karaoke B, thuộc tổ 07, phường QL, TP Hòa Bình, tỉnh Hòa Bình.

Hành vi của các bị cáo là rất nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn, đây còn là nguyên nhân của nhiều loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc mua, cung cấp ma túy, tụ tập, chế biến ma túy để cùng nhau sử dụng bị nghiêm cấm nhưng do coi thường pháp luật, nhằm thỏa mãn nhu cầu sử dụng ma túy của bản thân mình và những người khác nên vẫn cố tình thực hiện. Cáo trạng truy tố các bị cáo Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 của BLHS là có căn cứ, đúng pháp luật.

Với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện cần áp dụng hình phạt tù tương xứng, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới để cải tạo, giáo dục và răn đe phòng ngừa tội phạm nói chung.

[3] Về vị trí, vai trò của từng bị cáo trong vụ án:

Đây là vụ án có nhiều đối tượng cùng nhau tham gia thực hiện tội phạm nhưng giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, chỉ đạo, điều hành, phân công trách nhiệm, vai trò của từng người một cách rõ ràng, chặt chẽ nên chỉ là đồng phạm giản đơn.

Trong vụ án này, bị cáo Bùi Anh T là người giữ vai trò chính, là người khởi xướng, rủ rê, trực tiếp mua, chia và chế biến ma túy nên phải chịu mức án cao hơn các đồng phạm khác. Đối với bị cáo Nguyễn Thị H và Lại Công Tuấn A tham gia với vai trò là người giúp sức tích cực. Trong đó H là người ứng tiền để T mua ma túy; Tuấn A là người sắp xếp phòng, mang đĩa sứ, bật lửa, card điện thoại cho T chế biến ma túy và cũng là người cho bị cáo T vay để trả tiền ma túy và trực tiếp trả tiền mua ma túy cho T. Do đó phải chịu mức hình phạt tương đương nhau và thấp hơn bị cáo T là phù hợp.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội:

Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Bị cáo T có nhân thân xấu, năm 2012 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân TP Hòa Bình xử phạt 42 tháng tù về tội “Môi giới mại dâm”.

Qúa trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân. Riêng bị cáo Nguyễn Thị H đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm và Phòng CSĐTTP về ma túy Công an tỉnh Hòa Bình đã có công văn số: 335/PC04 ngày 28/6/2021 về việc xin xem xét giảm nhẹ. Bị cáo H là lao động chính trong gia đình, một mình nuôi con bệnh tim còn nhỏ. Đối với bị cáo Tuấn A đã đầu thú.

Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, được áp dụng khi quyết định hình phạt với từng bị cáo.

Căn cứ vào vị trí, vai trò, tính chất hành vi phạm tội và nhân thân người phạm tội, HĐXX xét thấy, bị cáo Lại Công Tuấn A tham gia với vị trí, vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án và bị cáo Nguyễn Thị H có 02 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 BLHS nên có thể áp dụng Điều 54 BLHS để quyết định cho các bị cáo được hưởng mức hình phạt dưới mức thấp nhất của hình phạt được áp dụng và trong khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có việc làm, thu nhập nên không áp dụng hình phạt tiền là hình phạt bổ sung.

[5] Về nguồn gốc ma túy:

Bị cáo Bùi Anh T và Lại Công Tuấn A khai nhận mua ma túy của đối tượng tên là V để phục vụ cho việc sử dụng ma túy. Cơ quan điều tra đang xác định khởi tố đối tượng tên V trong một vụ án Mua bán trái phép chất ma túy khác nên không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[6] Về hành vi của những cá nhân khác trong vụ án:

- Đối với anh Nguyễn Duy T1 là chủ quán Karaoke B, khi cho các bị cáo thuê phòng 301 đã không biết mục đích thuê để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Song, anh T1 có sơ hở trong quản lý địa điểm kinh doanh Karaoke của mình và các nhân viên của quán; kinh doanh dịch vụ karaoke khi chưa có giấy phép kinh doanh nên cơ quan điều tra đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với anh T1 là phù hợp.

- Đối với Nguyễn Việt D và Nguyễn Đức H1 qúa trình điều tra xác định không liên quan đến việc bàn bạc, phân công, thực hiện các hành vi chuẩn bị cho việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không xem xét trách nhiệm hình sự. Cơ quan điều tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy là đúng với quy định của pháp luật.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với các vật chứng là 05 bật lửa là công cụ, phương tiện phạm tội, 02 túi ni lông bên trong có chứa tạm chất chất ma túy bám dính cần tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung của Bùi Anh T và 01 điên thoại nhãn hiệu Iphone 11 Promax của Nguyễn Thị H, HĐXX xét thấy các bị cáo đã sử dụng chiếc điện thoại trên để liên lạc mua ma túy, cũng như chuyển tiền mua ma túy, là phương tiện phạm tội, vẫn còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Đối với 02 sim điện thoại (01 sim Viettel, 01 sim Vinaphone) thu giữ bên trong máy điện thoại Samsung của bị cáo T và 01 sim Vinaphone thu giữ bên trong máy điện thoại Iphone 11 Promax của bị cáo H, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của anh Nguyễn Việt D; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng bên trong có 01 sim thu giữ của bị cáo Nguyễn Thị H; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen bên trong có 01 sim, 01 đồng hồ kim loại, 01 nhẫn bằng kim loại thu giữ của bị cáo Lại Công Tuấn A, HĐXX xét thấy những vật chứng này không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo và anh D.

- Đối với 01 đầu thu tín hiệu nhãn hiệu KBVISION thu giữ của quán Karaoke B, xét thấy còn giá trị sử dụng nên cần trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Duy T1.

[8] Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, mỗi bị cáo Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A phải chịu án phí hình sự 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Bùi Anh T 07 (Bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 14/5/2021.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; khoản 2 Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Lại Công Tuấn A 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 19/5/2021.

- Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58; Điều 54 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt Nguyễn Thị H 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt thi hành án. Bị cáo được trừ 09 ngày (từ ngày 14/5/2021 đến 22/5/2021), thời gian bị cáo đã bị tạm giữ.

2.Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 05 bật lửa, trong 01 phong bì niêm phong vật chứng một mặt ghi thuộc vụ: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, ngày bắt 13/5/2021 tại phòng 301, quán karaoke B thuộc tổ 07, phường QL, TP Hòa Bình, mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

- Tịch thu tiêu hủy 02 túi ni lông, trong 01 phong bì niêm phong vật chứng hoàn trả sau giám định chất ma túy số thông báo kết luận giám định 148 ngày 18 tháng 5 năm 2021 ghi vụ: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 301 – quán karaoke B, mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đen, số Imei: 356646104477450   đã qua sử dụng thu giữ của Bùi Anh T.

- Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 11 Promax màu vàng, số Imei: 353950101004934, đã qua sử thu giữ của Nguyễn Thị H.

- Tịch thu tiêu hủy 02 sim điện thoại (01 sim Viettel, 01 sim Vinaphone) thu giữ bên trong máy điện thoại Samsung của bị cáo Bùi Anh T.

- Tịch thu tiêu hủy 01 sim Vinaphone thu giữ bên trong máy điện thoại Iphone của bị cáo Nguyễn Thị H.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng, số Imei: 358573081625968, bên trong có 01 sim Vinaphone, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy.

- Trả lại cho bị cáo Lại Công Tuấn A 01 đồng hồ kim loại viền quanh mặt kính màu vàng, dây bằng kim loại màu trắng, bên trong mặt kính có ghi chữ Rolex, đã qua sử dụng; 01 nhẫn bằng kim loại màu bạc, đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 357698106993868, bên trong có 01 sim Viettel, đã qua sử dụng không kiểm tra tình trạng máy.

- Trả lại cho anh Nguyễn Việt D 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, số Imei: 356819631208520, bên trong có 01 sim Viettel, đã qua sử dụng, không kiểm tra tình trạng máy.

- Trả lại cho anh Nguyễn Duy T1 01 đầu thu tín hiệu nhãn hiệu KB VISION màu đen, trong 01 hộp niêm phong vật chứng một mặt ghi thuộc vụ: Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, ngày bắt 13/5/2021 tại phòng 301, quán karaoke B thuộc tổ 07, phường QL, TP Hòa Bình, mép dán niêm phong có dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Hòa Bình và chữ ký của các thành phần tham gia niêm phong.

(Các vật chứng trên hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình có đặc điểm cụ thể như mô tả trong biên bản giao nhận vật chứng số 29/BB ngày 12/01/2022 giữa Cơ quan CSĐT Công an thành phố Hòa Bình và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Hòa Bình).

3. Về án phí: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Mỗi bị cáo Bùi Anh T, Nguyễn Thị H, Lại Công Tuấn A phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo với thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

29
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 11/2022/HS-ST

Số hiệu:11/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hòa Bình - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;