TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 23/2022/HS-PT NGÀY 22/02/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 244/TLPT-HS ngày 30/12/2021 đối với bị cáo Đỗ Đức T, do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 199/2021/HS-ST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo kháng cáo:
Đỗ Đức T, sinh năm 1989 tại tỉnh Hưng Yên; nơi ĐKHKTT: Xóm 1, thôn Cao Xá, xã T, huyện P, tỉnh Hưng Yên; nơi cư trú: Số 106 đường N, phường 6, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Bán vé số; trình độ học vấn: Lớp 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đỗ Đức T, sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị Th, sinh năm 1965 (đã chết); vợ Tạ Thị Thanh H, sinh năm 1993 và có 01 người con sinh năm 2020; tiền án, tiền sự: Không.
Bị cáo hiện đang tại ngoại. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Đầu năm 2020, Đỗ Đức T chuẩn bị một số vật dụng gồm: Dù, tủ kính, bàn...
để mở quầy bán vé số tại khu vực đối điện số nhà 24E N, phường 7, thành phố Đ.
Quá trình bán vé số, T gặp một người đàn ông tên Đ (chưa rõ nhân thân lai lịch) giới thiệu và hướng dẫn T cách ghi số đề và nhờ T ghi số đề cho khách để kiếm thêm thu nhập, theo tỷ lệ đưa ra cứ ghi cho khách được 1.000.000đ thì sẽ nhận lại được 20.000đ từ Đ, hằng ngày khoảng 18 giờ 30 phút thì sẽ có người của Đ đến để lấy tiền sau đó trích lại phần trăm cho T. Khi nghe Đ đề cập việc ghi số đề như trên, T đồng ý và chuẩn bị các công cụ theo hướng dẫn của Đ, bao gồm: bút bi, tờ phơi 5x10cm (được cắt từ giấy trắng), giấy than, hộp lon sữa bò để đốt phơi đề tránh bị phát hiện. Sau đó từ tháng 12/2020, T đã tổ chức ghi số đề cho nhiều lượt khách với hình thức ghi số đề và cách tính thắng thua, cụ thể như sau:
Nếu khách có nhu cầu mua số đề thì sẽ chọn con số và kiểu chơi để T ghi vào phơi đề chuẩn bị sẵn, gồm 02 bản: bản chính và bản in ra từ giấy than. Căn cứ vào kết quả xổ số của các công ty xổ số miền Bắc, miền Trung, miền Nam của mỗi ngày, nếu con số ghi trên phơi đề trùng khớp với kết quả thì khách thắng bạc và T phải chung tiền cho người chơi theo tỷ lệ quy định, nếu con số ghi trên phơi đề không trùng khớp với kết quả thì T thắng số tiền khách đã ghi.
Về kiểu chơi và cách tính tỷ lệ cụ thể như sau:
- Đối với đài miền Trung (Thừa Thiên Huế, Phú Yên, Quảng Nam, Đắk Lắk, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Định, Quảng Bình, Quảng Trị, Ninh Thuận, Gia Lai, Quảng Ngãi, Đắk Nông, Kon Tum) mở thưởng lúc 17 giờ 15 phút và đài miền Nam (Hồ Chí Miinh, Đồng Tháp, Cà Mau, Bến Tre, Vũng Tàu, Bạc Liêu, Đồng Nai, Cần Thơ, Sóc Trăng, An Giang, Tây Ninh, Bình Thuận, Vĩnh Long, Trà Vinh, Bình Dương, Long An, Bình Phước, Hậu Giang, Tiền Giang, Kiên Giang, Đà Lạt) mở thưởng lúc 16 giờ. Có các kiểu như sau:
+ Bao lô: Đánh hết 18 lô trong kết quả xổ số, nếu đánh 2 chân (2 số cuối) mà thắng thì tỷ lệ thắng là 1 ăn 65; nếu đánh 3 chân (3 số cuối) mà thắng thì tỷ lệ thắng là 1 ăn 550. Thực tế, để thu hút khách, khi đánh bao lô thì T chỉ lấy số tiền tương ứng với 14 lô thay vì 18 lô như kết quả xổ số.
+ 3 khúc: Đánh hết 18 lô trong kết quả xổ số và 3 lô trùng nhau (gọi là xuyên khe”), nếu đánh 2 chân (2 số cuối) mà thắng thì tỷ lệ thắng là 1 ăn 65; nếu đánh 3 chân (3 số cuối) mà thắng thì tỷ lệ thắng là 1 ăn 550. Thực tế, để thu hút khách, khi đánh bao lô thì T chỉ lấy số tiền tương ứng với 15 lô thay vì 21 lô như kết quả xổ số.
+ Ngoài ra, khách có thể đánh theo từng lô: Đầu, giữa, cuối hoặc từng khúc:
7 lô đầu, 7 lô giữa và 7 lô cuối tùy theo từng khách.
- Đối với đài miền Bắc (hay còn gọi là đài Hà Nội hoặc xổ số Thủ Đô), mở thưởng vào lúc 18 giờ hàng ngày: Cũng tương tự như đài miền Trung và đài miền Nam nhưng số lô tăng lên là 27. Để thu hút khách, T chỉ lấy số tiền tương ứng với 23 lô thay vì 27 lô như kết quả xổ số. Ngoài ra, T còn quy định cách chơi xiên 2, xiên 3 ở đài miền Bắc. Cách đánh “xiên 2”, “xiên 3” nghĩa là khách phải đánh theo cặp số (xiên 2 là 2 cặp số, xiên 3 là 03 cặp số). Để trúng được thì cặp số mà khách đánh phải xuất hiện đồng thời trên kết quả xổ số miền Bắc ra ngày hôm đó. Về tỷ lệ ở đài miền Bắc như sau: Bao lô 2 số thắng tỷ lệ 1 ăn 75, bao lô 03 số thắng tỷ lệ 1 ăn 650, xiên 2 thắng tỷ lệ 1 ăn 550, xiên 3 thắng tỷ lệ 1 ăn 1500, lô đầu hoặc cuối tỷ lệ 1 ăn 70.
Vào ngày 10/3/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ phát hiện một số đối tượng có dấu hiệu đánh bạc dưới hình thức ghi số đề tại quầy bán vé số của Đỗ Đức T. Đến 17 giờ 55 phút cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đ đã tiến hành kiểm tra và bắt quả tang Đỗ Đức T đang đánh bạc dưới hình thức ghi số đề thắng thua bằng tiền cho Nguyễn Đức D. Khi D đã đưa số tiền 150.000đ cho T và T đang đưa lại phơi đề (được in trên giấy than) thì bị bắt quả tang ngay tại chỗ, tạm giữ 20 phơi đề T ghi cho khách (được đánh số thứ tự từ 01 đến 20), cùng các đồ vật, tài liệu có liên quan đến việc ghi số đề.
Quá trình điều tra xác định vào ngày 10/3/2021, Đỗ Đức T đã tổ chức cho 20 người khác đánh bạc thắng thua bằng tiền dưới hình thức ghi số đề, vụ thể như sau:
1. Trưa ngày 10/3/2021, Trần Thị Mỹ L đến gặp T và ghi con số “32 -300n, hình thức đánh bao lô” đài Hà Nội, tổng tiền đánh bạc là 6.900.000đ. Sau khi ghi số đề cho L thì T về nhà ăn cơm và cất số tiền 6.900.000đ vừa ghi của L ở nhà (phơi đề số 04).
2. Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 10/3/2021, T ghi số đề cho Nguyễn Công D, sinh năm 1960, nơi cư trú: 8/7 Đan Kia, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi con số “951 - 1 - 4 -1, hình thức đánh ba khúc”, đài Sóc Trăng và “248 - 2n - 3k, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, tổng số tiền đánh bạc là 60.000đ (phơi đề mang số thứ tự 28).
3. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/3/2021, T ghi số đề cho Trần Đình V, sinh năm 1971, nơi cư trú: 252 Phù Đổng Thiên Vương, phường 8, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi số “88 – 5 -10 -5, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, tổng số tiền đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 36).
4. Vào khoảng 15 giờ 30 phút ngày 10/3/2021, T ghi số đề cho Trương Doãn H, sinh năm 1984, nơi cư trú: 213 Nguyên Tử Lực, phường 8, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi số “720 - 1 - 2- 1, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, tổng số tiền đánh bạc là 20.000đ (phơi đề mang số thứ tự 29). Ngày 09/3/2021 ghi số “499 - 1 - 2 - 1, hình thức đánh ba khúc”, đài Đồng Nai (xổ ngày 10/3/2021), tổng số tiền đánh bạc là 20.000đ (phơi đề mang số thứ tự 29). Tổng số tiền đánh bạc của 02 phơi đề trên là 40.000đ.
5. Vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Nguyễn Kim Q, sinh năm 1979, nơi cư trú: 59 Nguyễn Hoàng, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi các con số “7734, 1793, 793, 734 - 1n - 3k, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, số tiền ghi đề là 60.000đ (phơi số 30); Các con số “6453 - 2n - b; 3421 - 1n - b, hình thức đánh bao lô” đài Đà Nẵng, số tiền ghi đề là 45.000đ (phơi số 31); Các con số “ 720 - 2n - b, hình thức đánh bao lô” đài Hà Nội, số tiền ghi đề là 40.000đ (phơi số 32). Tổng số tiền đánh bạc của 03 phơi trên là 145.000đ.
6. Vào khoảng 16 giờ ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Lê Công H, sinh năm 1990, nơi cư trú: 114 Ngô Quyền, phường 6, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi con số “643 - 2n - 3k, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, tổng số tiền đánh bạc là 60.000đ (phơi đề mang số thứ tự 34).
7. Vào khoảng 16 giờ ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Đỗ Thanh H, sinh năm 1990, nơi cư trú: 66 Tô Hiệu, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi con số “641, 354 - 3 - 4 - 3, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, tổng số đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 35).
8. Vào khoảng 16 giờ 30 phút ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Phạm Văn P, sinh năm 1979, nơi cư trú: Bản Ngày, xã Lâm Phú, huyện L, tỉnh Thanh Hóa. Nội dụng: ghi các con số “63, 64, 65, 66, 67, 46, 56, 96, 03, 65 - 24n, hình thức đánh đánh lô cuối”, với số tiền đánh bạc là 620.000 đồng (phơi đề mang số thứ tự 12); Ghi các con số từ số 06 → 96, từ số 60 → 69 - 6n - c, hình thức đánh lô cuối” đài Hà Nội (phơi đề mang số thứ tự 14) với số tiền là 100.000đ. Tổng số tiền đánh bạc của 02 phơi đề trên là 720.000đ.
9. Vào khoảng 15 giờ 50 phút ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1985, nơi cư trú: Đô Lương, xã Nga Thủy, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Nội dung: ghi con số “64, 81 - 1n - 3k, hình thức đánh ba khúc” đài Đồng Nai, Sóc Trăng, Cần Thơ. Tổng số tiền đánh bạc là 90.000đ (phơi đề mang số thứ tự 33).
10. Vào khoảng 17 giờ ngày 10/3/2021, ghi số đề cho Nguyễn Trần Anh T, sinh năm 1982, nơi cư trú: 36 Nguyễn Hoàng, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dụng: ghi con số “379, 479, 493, 593 – x – 3 – 2, hình thức đánh hai khúc giữa và cuối” đài Khánh Hòa, tổng số tiền đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 18).
11. Vào khoảng 17 giờ ngày 10/3/2021, ghi cho Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1965, nơi cư trú: 18 Trần Bình Trọng, phường Phước Tiến, thành phố N, tỉnh Khánh Hòa. Nội dung: ghi các con số “87 - 12n - 3k; 187 - 1 – 2 - 1, hình thức đánh ba khúc” 02 đài miền Trung với số tiền đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 13). Các con số “52 - 2n - 3k; 452 - 1 - 2 - 1, hình thức đánh ba khúc” 02 đài miền Trung với số tiền đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 16). Tổng số tiền đánh bạc của 02 phơi đề trên là 200.000đ.
12. Vào khoảng 17 giờ 30 phút ngày 10/3/2021, ghi cho Trần Thị Bích N, sinh năm 1972, nơi cư trú: Xã Tân Hưng, huyện B, tỉnh Bình Dương. Nội dung: ghi con số “76, 67 - 1n - x, hình thức đánh xiên 2, bao lô; 40→49 - 6n - c, hình thức đánh lô cuối” đài Hà Nội, tổng số tiền đánh bạc là 100.000đ (phơi đề mang số thứ tự 11).
13. Vào khoảng 17 giờ ngày 10/3/2021, ghi cho Bùi Ngọc H, sinh năm 1991, nơi cư trú: Xóm 2 Thành Sơn, xã Kiên Thọ, huyện N, tỉnh Thanh Hóa. Nội dung: ghi con số “540, 5740 - 1n - b và 597 - 1n - b, hình thức đánh bao lô” đài Hà Nội, tổng số tiền đánh bạc là 60.000đ (phơi đề mang số thứ tự 15).
14. Vào khoảng 17 giờ 45 phút ngày 10/3/2021, ghi cho Nguyễn Đức D, sinh năm 1988, nơi cư trú: 36 Nguyễn Hoàng, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng. Nội dung: ghi các con số “80, 20 - 1n - x2 và 86, 68 - 2n -x2, hình thức đánh 1 ngàn x 2” đài Hà Nội, tổng số tiền đánh bạc là 150.000đ (phơi đề mang số thứ tự 01).
15. Phơi đề mang số thứ tự 06 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “969 - 1n - 3k và 67, 68, 69 - 3 - 4 - 3, hình thức đánh ba khúc” 02 đài Miền Trung, tổng số tiền ghi đề là 180.000đ.
16. Phơi đề mang số thứ tự 07 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “39 - 6n - đc, hình thức đánh đầu - cuối” đài 3 đài miền nam, tổng số tiền đánh bạc là 30.000đ.
17. Phơi đề mang số thứ tự 09 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “74 - 5n - b và 574 - 2n - b, hình thức đánh bao lô” đài Hà Nội, tổng số tiền đánh bạc là 155.000đ.
18. Phơi đề mang số thứ tự 17 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “597 - 5 - 10 - 5, hình thức đánh ba khúc” 2 đài Miền trung, tổng số tiền đánh bạc là 200.000đ.
19. Phơi đề mang số thứ tự 19 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “02, 20, 66, 67, 68, 88, 89, 368, 86, 96 - 24n - c, hình thức đánh lô cuối; 02, 20 - 1n - x2, hình thức đánh bao lô xiên 2; 02, 68, 88 - 1n x3 và 02,68 - 10n x3, hình thức đánh bao lô xiên 3” đài Hà Nội. Tổng số tiền ghi đề là 780.000đ.
20. Phơi đề mang số thứ tự 20 (chưa xác định được lai lịch người đánh bạc). Nội dung: ghi các con số “86 - 360n - c và 886 - 60n - c, hình thức đánh lô cuối” đài Hà Nội. Tổng số tiền ghi đề là 350.000đ.
Tổng số tiền Đỗ Đức T tổ chức đánh bạc vào ngày 10/3/2021 là 13.200.000đ, gồm: 9.800.000đ tiền ghi trên các phơi đề và 3.400.000đ thu giữ trên người T sử dụng vào mục đích đánh bạc.
Tổng số tiền Trần Thị Mỹ L đã đánh bạc vào ngày 10/3/2021 là 6.900.000đ.
Do Cơ quan điều tra phát hiện, ngăn chặn việc “Đánh bạc” và “Tổ chức đánh bạc” vào ngày 10/3/2021 trước thời điểm có kết quả xổ số nên không có căn cứ để xác định thắng thua.
Tang vật thu giữ:
- Thu giữ của Đỗ Đức T:
+ 01 điện thoại di động hiệu Samsung A11, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Samsung J7 Prime, màu vàng, màn hình đã bị nứt vỡ; 01 chiếc dù màu đỏ - trắng, cao 2m; số tiền 3.000.000đ và 01 xe mô tô hiệu Lead, biển số: 88F1 - 33722, màu vàng, số máy: JF45E0831475, số khung: 451XFY794074. Quá trình điều tra xác định số tài sản trên không liên quan đến hành vi phạm tội của T nên ngày 20/7/2021, Cơ quan điều tra đã xử lý vật chứng trả lại số tài sản này cho Đỗ Đức T.
+ Số tiền 13.200.000đ; 01 máy tính hiệu Casio, màu đen - bạc; 01 xấp giấy trắng, kích thước mỗi tờ 5x10cm, không ghi gì bên trên; 02 tờ giấy than, màu xanh, kích thước 5x10cm; 01 tủ kính nhôm, kích thước 80x25x50; 01 lon sữa bò, bị cháy đen bên trong; 02 sổ dò kết quả xổ số; 01 cây bút bi mực màu xanh; 20 tờ phơi đề có nội dung ghi trên phơi (được đánh số thứ tự từ 01 đến 20).
- Thu giữ của Trần Thị Mỹ L số tiền 800.000đ.
- Thu giữ của Nguyễn Đức D: 01 điện thoại di động hiệu Nokia, phím bấm, màu đen; 01 điện thoại di động hiệu Itel, phím bấm, màu đen; 01 xe máy hiệu Jupiter, biển kiểm soát 49P3 - 7178, màu đen - trắng, số máy: C3021195, số khung: Y021193. Ngày 20/7/2021, Cơ quan điều tra đã trả lại số tài sản này cho D.
Theo bản Kết luận giám định chữ viết số 311 ngày 11/5/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định:
- Chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu từ A1 đến A37 so với chữ viết của Đỗ Đức T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M43 là do cùng một người viết ra.
- Chữ viết trên các tài liệu cần giám định ký hiệu A38, A39 so với chữ viết của Đỗ Đức T trên các tài liệu mẫu so sánh ký hiệu từ M1 đến M43 không phải do cùng một người viết ra.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A10 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A1.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A11 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A21.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A12 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A23.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A13 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A25.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A14 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A22.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A15 là bản viết in qua giây than của tài liệu cần giám định ký hiệu A37.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A16 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A26.
- Chữ viết trên tài liệu cần giám định ký hiệu A18 là bản viết in qua giấy than của tài liệu cần giám định ký hiệu A24.
Tại bản Cáo trạng số 206/Ctr-VKS ngày 28 tháng 9 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố bị cáo Đỗ Đức T về tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Trần Thị Mỹ L về tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 199/2021/HSST ngày 28/10/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
1. Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”; bị cáo Trần Thị Mỹ L phạm tội “Đánh bạc”.
Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Đỗ Đức T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bắt giam thi hành án.
Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xử phạt bị cáo Trần Thị Mỹ L 12 (mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án (ngày 28/10/2021).
Giao bị cáo Trần Thị Mỹ L cho Ủy ban nhân dân phường 2, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp cùng chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật Hình sự.
2. Về hình phạt bổ sung: Áp dụng Điều 35, khoản 3 Điều 321; khoản 3 Điều 322 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Đức T số tiền 20.000.000đ.
Phạt bổ sung bị cáo Trần Thị Mỹ L số tiền 10.000.000đ.
Ngoài ra, bản án còn xử lý vật chứng, tuyên án phí và quyền kháng cáo. Ngày 04/11/2021 bị cáo Đỗ Đức T kháng cáo xin được hưởng án treo hoặc phạt tiền.
Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Đức T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo, không thắc mắc, khiếu nại bản án sơ thẩm và giữ nguyên kháng cáo được hưởng án treo hoặc phạt tiền.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Đức T, giữ nguyên mức hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Tại phiên tòa bị cáo khai nhận:
Vào ngày 10/3/2021, tại khu vực đường Nguyễn Hoàng, phường 7, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng, bị cáo Đỗ Đức T đã tổ chức ghi số đề cho các đối tượng gồm Trần Thị Mỹ L, Nguyễn Công D, Trần Đình V, Trương Doãn H, Nguyễn Kim Q, Lê Công H, Đỗ Thanh H, Phạm Văn P, Nguyễn Văn T, Nguyễn Trần Anh T, Hoàng Thị Thu H, Trần Thị Bích N, Bùi Ngọc H, Nguyễn Đức D và 06 người chưa xác định được nhân thân, lai lịch. Tổng số tiền bị cáo T tổ chức đánh bạc là 13.200.000đ, trong đó Trần Thị Mỹ L tham gia đánh bạc dưới hình thức ghi số đề với số tiền là 6.900.000đ.
Cấp sơ thẩm đã đánh giá toàn diện chứng cứ, đối chiếu lời khai của các bị cáo, người làm chứng, người chứng kiến, vật chứng thu giữ, Bản kết luận giám định; đã tuyên bố bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a, khoản 1 Điều 322; bị cáo Trần Thị Mỹ L phạm tội “Đánh bạc” theo quy định tại khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[2] Xét kháng cáo xin được hưởng án treo của bị cáo Đỗ Đức T: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, là nguyên nhân phát sinh các tội phạm khác. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội nhưng có nhiều tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, từng tham gia quân ngũ được tặng thưởng giấy khen, bị cáo có ông, bà nội được thặng thưởng huân chương kháng chiến theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tại phiên tòa xuất trình biên lai đã nộp tiền phạt bổ sung. Ngoài lần phạm tội này thì bị cáo chưa phạm tội lần nào, có nơi cư trú rõ ràng, vì vậy bị cáo đủ điều kiện để được hưởng án treo theo quy định tại Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn về áp dụng án treo. Do đó chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Đức T, cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng là phù hợp.
[3] Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm e khoản 1 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đỗ Đức T, sửa bản án sơ thẩm.
Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 65 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tuyên bố bị cáo Đỗ Đức T phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.
Xử phạt bị cáo Đỗ Đức T 15 (mười lăm) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 30 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm (ngày 22/02/2022).
Giao bị cáo Đỗ Đức T cho Ủy ban nhân dân phường 6, thành phố Đ, tỉnh Lâm Đồng nơi bị cáo cư trú để giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo. Trường hợp thực hiện hành vi phạm tội mới thì Tòa án buộc người đó phải chấp hành hình phạt của bản án trước và tổng hợp với hình phạt của bản án mới theo quy định tại Điều 56 của Bộ luật này. Trong trường hợp các bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Phạt bổ sung bị cáo Đỗ Đức T số tiền 20.000.000đ (bị cáo đã thi hành xong theo Biên lai thu tiền số 0000575 ngày 22/02/2022 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Lâm Đồng).
2. Căn cứ Điều 135 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Bị cáo Đỗ Đức T không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 23/2022/HS-PT
Số hiệu: | 23/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/02/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về