TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 1022/2023/HS-PT NGÀY 29/12/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC
Trong các ngày 28 và 29 tháng 12 năm 2023, tại trụ sở; Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 294/2023/TLPT-HS ngày 27 tháng 4 năm 2023 đối với bị cáo Cao D H và đồng phạm.
Do có kháng nghị và kháng cáo của các bị cáo Trần Huy N, Nguyễn Phan Quốc D đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 1618/2023/QĐ-PT ngày 11 tháng 12 năm 2023.
- Các bị cáo bị kháng nghị:
1. Họ và tên: Cao D H; Giới tính: N; Sinh năm: 1984; tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Nơi ĐKTT: S, XS, Châu Đức, Bà Rịa- Vũng Tàu; Tạm trú: 126 Đường số 1, KP2, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Cao Xuân T; Mẹ: Nguyễn Thị Thúy P; bị cáo có vợ và 01 con sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 21/3/2023 được trả tự do. “có mặt”
2. Họ và tên: Lầu Văn T; Giới tính: N; Sinh năm: 1994; tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Thôn SN, xã SN, Châu Đức, Bà Rịa- Vũng Tàu; Tạm trú: 126 Đường số 1, KP2, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Lầu Văn N; Mẹ: Lê Thị L; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 21/3/2023 được trả tự do; “có mặt”
3. Họ và tên: Phạm Văn T; Giới tính: N; Sinh năm: 1983; tại thành phố Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: 219A, Tổ 39, khu phố 11A, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 9/12; Cha: Phan Văn N; Mẹ: Trần Thị D; bị cáo có vợ và 03 người, lớn nhất sinh năm: 2009, nhỏ nhất sinh năm: 2019; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “có mặt”
4. Họ và tên: Đỗ Văn T1; Giới tính: N; Sinh năm: 1988; tại Hải Phòng; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: 119 Lô B, chung cư 5 tầng, khu phố C, phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Đỗ Văn D; Mẹ: Bùi Thị T; bị cáo có vợ và 02 người, sinh năm: 2011 và 2015; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “có mặt”
5. Họ và tên: Nguyễn Thanh S; Giới tính: N; Sinh năm: 1988; tại tỉnh Bến Tre; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Căn hộ B10.12 chung cư S, ấp 5, xã P, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Nguyễn Văn X; Mẹ: Bùi Thị P; bị cáo chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “có mặt”;
6. Họ và tên: Nguyễn Văn T2; Giới tính: N; Sinh năm: 1976; tại tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Tiểu khu V, thị trấn B, huyện H, tỉnh Thanh Hoá; Chỗ ở: 197/23A/17 Tổ 39A, KP11, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Nguyễn Đăng N1; Mẹ: Lê Thị L; bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 1999; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “có mặt”
7. Họ và tên: Phan Minh H; Giới tính: N; Sinh năm: 1982; tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Căn hộ B10.12 chung cư S, ấp 5, xã P, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 02/12; Cha: Phan Đinh B (chết); Mẹ: Ngô Thị T; bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm: 2017; Tiền án tiền sự: không; bị cáo bị tạm giam từ ngày 21/12/2021 cho đến nay. Có mặt
8. Họ và tên: Trần Hải H; Giới tính: N; Sinh năm: 1974; tại tỉnh Hải D; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: 101 Lô 10, cư xá TD, Phường X, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; Căn hộ số 5, Block A, Tầng 16, chung cư O, đường số 20, phường H, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha:Trần Văn T; Mẹ: Nguyễn Thị N (chết); bị cáo có vợ và 02 người con, con lớn nhất sinh năm 2013 và nhỏ nhất 2019; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giữ từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “có mặt”
- Các bị cáo cáo có kháng cáo, bị kháng nghị:
9. Họ và tên: Trần Huy N; Giới tính: N; Sinh năm: 1985; tại tỉnh Hà Tĩnh; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: 280C Tổ 39C, KP11, phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 12/12; Cha: Trần Huy C; Mẹ: Nguyễn Thị L1; bị cáo có vợ và 01 người con sinh năm 2016; Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo tạm giữ từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2021 được thay đổi biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại; “vắng mặt”
10. Họ và tên: Nguyễn Phan Quốc D; Giới tính: N; Sinh năm: 1X; tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; nghề nghiệp: Lao động tự do; Nơi ĐKTT: Tổ 15, thôn Q, xã XS, huyện C, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu; Quốc tịch: Việt N; Dân tộc: Kinh; Trình độ học vấn: 8/12; Cha: Nguyễn Văn H1; Mẹ: Phan Thị Hồng P; bị cáo có vợ và 01 con sinh năm 2013; Tiền án: Ngày 04/3/2009, bị Tòa án nhân dân huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xử phạt 07 tháng tù về tội hủy hoại tài sản, thi hành án tại Trại tạm giam Công an tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, chấp hành xong hình phạt ngày 05/6/2009, thi hành xong phần án phí vào ngày 11/5/2022; Tiền sự: không Bị cáo tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 02/8/2022 được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; Bị cáo tại ngoại; có đơn xin vắng mặt.
Người bào chữa cho các bị cáo Phan Minh H, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Phan Quốc D và Trần Hải H:
Luật sư Tô Bá T, thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 20/12/2021, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an phối hợp với các lực lượng liên quan bắt quả tang tại căn hộ 24.10, block T1A, chung cư M-One, đường Bế Văn Cấm, phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh Nguyễn Văn D đang có hành vi dùng máy tính, điện thoại di động tính toán, cộng sổ tiền thắng thua từ hoạt động tổ chức đánh bạc trên mạng internet với hình thức cá độ bóng đá cho Nguyễn Văn Đ.
* Tang vật thu giữ: 01 (một) điện thoại Iphone, màu trắng bạc, số IMEI 356X086675022, gắn sim điện thoại số 076743X; 01 (một) laptop, hiệu Asus Vivobook, màu bạc, số model: A515E.
Căn cứ tài liệu thu thập được, Cơ quan Cảnh sát điều tra-Bộ Công an đã tiến hành triệu tập, khám xét khẩn cấp nơi ở của các đối tượng liên quan để đấu tranh làm rõ và xác định:
Từ đầu năm 2020, Nguyễn Văn Đ lấy tài khoản tổng trên trang web cá cược Bong88.com (cấp Master) từ đối tượng tên Khang (chưa rõ lai lịch) là đại lý cấp trên về chia ra nhiều tài khoản khác nhau (cấp Agent) và giao cho các đại lý cấp dưới, con bạc là Phạm Văn T, Phan Minh H, Trần Hải H để tổ chức đánh bạc và đánh bạc trên mạng internet với hình thức cá độ bóng đá. Phạm Văn T giao lại tài khoản cá cược cho Đỗ Văn T1 quản lý và chia thành nhiều tài khoản nhỏ để giao cho Nguyễn Văn T2, Trần Huy N và một số con bạc khác (chưa xác định) tham gia đánh bạc; Phan Minh H giao tài khoản cho Nguyễn Thanh S quản lý và chịu trách nhiệm tính toán, giao nhận tiền thắng thua. Giúp sức cho Nguyễn Văn Đ trong việc tổ chức đánh bạc gồm: Nguyễn Văn D (cháu ruột Đ) có vai trò quản lý, chia tài khoản, tính toán và giao nhận tiền thắng thua, Cao D H, Lầu Văn T và một số đối tượng khác (chưa xác định) có vai trò góp tiền cùng Nguyễn Văn Đ để tổ chức đánh bạc. Lương Khắc T và vợ là Phạm Thị Hà M góp tiền cùng Trần Hải H tham gia đánh bạc.
Kết quả điều tra, đã xác định như sau:
I/ Đối với các bị can bị khởi tố về tội “Tổ chức đánh bạc”:
1. Nguyễn Văn Đ: Nguyễn Văn Đ không thừa nhận hành vi tổ chức đánh bạc và cũng không tham gia tổ chức đánh bạc hay đánh bạc với ai. Tuy nhiên căn cứ vào lời khai của các bị can: Nguyễn Văn D, Phan Minh H, Phạm Văn T, Trần Hải H và tài liệu trích xuất từ điện thoại của Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn Đ, kết quả nhận dạng hình ảnh của Đ, lịch sử cá cược đã thu thập được, xác định Nguyễn Văn Đ có vai trò tổ chức cầm đầu, lấy tài khoản tổng trên trang web cá cược Bong88.com (cấp Master) từ đối tượng đến Khang (chưa rõ lai lịch) là đại lý cấp trên rồi giao Nguyễn Văn D quản lý, chia ra nhiều tài khoản khác nhau (cấp Agent), sau đó góp tiền với Cao D H, Lầu Văn T và một số người khác (chưa xác định) giao cho các đại lý cấp dưới, con bạc gồm Phạm Văn T, Phan Minh H, Trần Hải H và một số người khác (chưa xác định) để tổ chức đánh bạc và đánh bạc trên mạng internet với hình thức cá độ bóng đá.
Kết quả kiểm tra các thiết bị điện tử đã thu giữ của bị can Nguyễn Văn Đ ghi nhận kết quả như sau:
- 01 (một) máy Macbook Pro, số Seri: CO2 CNLVOMD6M ghi nhận thiết bị đã nhiều lần truy cập vào trang Web: Bong88.com, Viva88.
- 01 (một) điện thoại Nokia màu đen, số Seri 1: 353141112883090, số Seri 2: 353141117883095, gắn sim điện thoại số 0935583X, ghi nhận thiết bị có lưu số điện thoại của nhiều đối tượng, bị can trong vụ án, thể hiện nhiều cuộc gọi đi, cuộc gọi đến, tin nhắn, liên quan đến hành vi “Tổ chức đánh bạc” của bị can.
- 01 (một) điện thoại Iphone màu đen, số IMEI 1: 356802115969130, số IMEI 2: 356802115968769, gắn sim điện thoại số 0907652X, tại ứng dụng Viber sử dụng số điện thoại 0794205X ghi nhận thiết bị có lưu số điện thoại của nhiều đối tượng, bị can trong vụ án, thể hiện nhiều cuộc gọi đi, cuộc gọi đến và tin nhắn trong các ứng dụng của điện thoại liên quan đến hành vi “Tổ chức đánh bạc” của bị can.
- 01 (một) điện thoại VERTU màu đen trắng, số IMEI: 355711020051531, gắn sim số điện thoại 0966668X ghi nhận thiết bị có lưu số điện thoại của nhiều đối tượng, bị can trong vụ án, thể hiện nhiều cuộc gọi đi, cuộc gọi đến trong điện thoại.
2. Nguyễn Văn D khai nhận: giúp sức cho Đ trong việc quản lý, chia tài khoản, tính toán và giao nhận tiền thắng, thua cho Đ tổ chức đánh bạc với hình thức cá cược bóng đá. Vào thứ 2 hàng tuần, sau khi tính toán tiền thắng thua, D thông báo cho Đ và các đại lý cấp dưới, con bạc. Việc giao, nhận tiền thắng thua được D và các đại lý cấp dưới, con bạc thực hiện bằng hình thức chuyển khoản hoặc giao tiền mặt.
Kết quả điều tra xác định D quản lý 02 tài khoản cá cược (Master): Zn7599; Opal16055, mỗi tài khoản 100.000 điểm, mỗi điểm 5.000 đồng (năm nghìn đồng), tương đương 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng)/01 tài khoản, sau đó D chia ra nhiều tài khoản (cấp Agent) giao cho các đại lý cấp dưới, con bạc: Phạm Văn T, Trần Hải H, Phan Minh H và một số đối tượng khác (chưa rõ lai lịch) để tổ chức đánh bạc. D tham gia giúp sức cho Đ tổ chức đánh bạc từ đầu năm 2020, đến khi bị bắt D được Đ trả công 280.000.000 đồng. Vào lúc 12 giờ ngày 20/12/2021, D đang tính toán và báo tiền thắng thua cho Đ và các đại lý con bạc cấp dưới thì bị lực lượng Công an vào bắt quả tang (Bút lục số 167).
Căn cứ các tài khoản cá cược bóng đá mà Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn D giao cho đại lý cấp dưới và con bạc đã được Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an trích xuất được dữ liệu, kể từ ngày 01/9/2021 đến ngày 20/12/2021. Căn cứ vào bản trích xuất dữ liệu cá cược bóng đá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bản chiết tính số tiền hưởng lợi từ việc “Tổ chức đánh bạc” của Đ và D là 116.590.690 đồng, đại lý cấp trên của Đ và D hưởng 152.479.250 đồng. Đối với các tài khoản cá cược bóng đá mà D giao cho nhiều người khác, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an không thu thập, trích xuất được dữ liệu (các tài khoản cá cược đã bị khoá) nên không đủ dữ liệu để tính toán số tiền thắng thua, tiền thu lợi bất chính từ việc “Tổ chức đánh bạc” của Đ và D.
3. Cao D H khai nhận: H quen biết với Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn D thông qua Phan Minh H từ năm 2018. H biết Đ và D tổ chức cá cược bóng đá vào năm 2021, H tham gia góp tiền để cùng với Đ, D “Tổ chức đánh bạc” được khoảng 02 tuần trước khi bị bắt, cụ thể: H tham gia góp 5.000 đồng/01 điểm trong 02 tài khoản cá cược tên “Zn75999020”, “Zn759900” (đã đăng nhập sao kê được lịch sử cá cược từng lần cụ thể).
Cơ quan điều tra đã khám xét và thu giữ của H 04 điện thoại và 01 máy tính bảng, kết quả kiểm tra điện thoại của Cao D H tại tin nhắn SMS thể hiện:
ngày 20/12/2021 (thứ hai), D nhắn tin báo cho H biết H hưởng được số tiền 7.500.000 đồng/01 tuần từ việc góp tiền tổ chức đánh bạc cùng Đ và D. H chưa nhận được số tiền 7.500.000 đồng (bảy triệu năm trăm nghìn đồng) thì bị bắt.
Ngoài hành vi tham gia góp tiền đánh bạc với Nguyễn Văn Đ, H còn có hành vi tàng trữ công cụ hỗ trợ như: súng, dao bầu, côn nhị khúc…(theo biên bản khám xét ngày 20/12/2021). H khai nhận về khẩu súng ngắn có ký hiệu: STREAMMER 2014-RBD9, 1019-000169 thu giữ tại nơi ở như sau: Cách ngày bị bắt khoảng 02 tháng, H lên mạng internet đặt mua 01 khẩu súng, 01 hộp tiếp đạn, 90 viên đạn với giá 25.000.000 đồng (hai mươi lăm triệu đồng) để phòng thân. Sau khi đặt hàng xong thì có người trực tiếp liên hệ giao súng cho H và nhận tiền, sau đó H cất khẩu súng này trong phòng ngủ, chưa sử dụng, ngày 20/12/2021 bị Cơ quan điều tra Bộ Công an kiểm tra phát hiện thu giữ. Kết luận giám định số 275/C09B ngày 21/12/2021 của Phân viện khoa học kỹ thuật hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh và Kết luận giám định số 1230/KL- KTHS ngày 05/4/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định súng, dao bầu, côn nhị khúc… đã thu giữ của H là công cụ hỗ trợ.
4. Lầu Văn T khai nhận: T quen biết với Nguyễn Văn Đ, Nguyễn Văn D thông qua Phan Minh H từ năm 2018. T biết Đ và D tổ chức cá cược bóng đá từ năm 2021 và bắt đầu tham gia góp tiền để cùng với Đ, D “Tổ chức đánh bạc” bằng hình thức cá cược bóng đá qua trang mạng được khoảng 02 tuần trước khi bị bắt, cụ thể: T tham gia góp 1.000 đồng/01 điểm trong 01 tài khoản cá cược tên “Zn75999020” (đã đăng nhập sao kê được lịch sử cá cược từng lần cụ thể).
Khám xét T, Cơ quan điều tra thu giữ 01 điện thoại di động. Kết quả kiểm tra điện thoại của Lầu Văn T tại tin nhắn ứng dụng Viber thể hiện: ngày 20/12/2021 (thứ hai), D nhắn tin báo cho T biết T hưởng được số tiền 1.400.000 đồng/1 tuần từ việc góp tiền tổ chức đánh bạc cùng Đ và D.
T chưa nhận được số tiền hưởng lợi này thì bị bắt.
5. Phạm Văn T khai nhận: Khoảng đầu năm 2021, Phạm Văn T liên lạc trực tiếp với Nguyễn Văn Đ lấy 02 tài khoản cá cược bóng đá (tài khoản tổng), sau đó Nguyễn Văn D là người quản lý về mặt kỹ thuật giao cho T 02 tài khoản cá cược bóng đá, gồm tài khoản: “Mrkhoaizn15”, có số điểm 50.000 điểm, đô 15 (quy ước 15.000 đồng/01 điểm), tương đương 750.000.000 đồng; Tài khoản Mrkhoaizn12, có số điểm 50.000 điểm, đô 12 (quy ước 12.000 đồng/01 điểm), tương đương 600.000.000 đồng. Sau đó, T tiếp tục liên lạc với D để lấy thêm 02 tài khoản Master là: “Mrkhoaisn15”, có số điểm 50.000 điểm, đô 7 (quy ước 7.000 đồng/01 điểm), tương đương 350.000.000 đồng; Tài khoản “Mrkhoaisn”, có số điểm 50.000 điểm, đô 7 (quy ước 7.000 đồng/01 điểm), tương đương 350.000.000 đồng. Với 04 tài khoản cá cược bóng đá này, khoảng tháng 6/2021, T rủ Đỗ Văn T1 hùn vốn với tỉ lệ 50/50 để tổ chức đánh bạc, T giao cho T1 quản lý 04 tài khoản cá cược bóng đá và chia ra nhiều tài khoản khác giao để cho các con bạc gồm: Nguyễn Văn T2, Trần Huy N và một số con bạc khác (chưa rõ lai lịch), T1 là người trực tiếp liên lạc tính toán tiền với các con bạc, T là người tính toán tiền thắng thua với D. Từ khi tổ chức đánh bạc đến ngày bị bắt, T hưởng lợi được số tiền khoảng 60.000.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết.
Kết quả kiểm tra điện thoại của Nguyễn Văn D tại mục tin nhắn SMS thể hiện: ngày 20/12/2021, D nhắn tin cho T nội dung thông báo các tài khoản cá cược của T thua 75.000.000 đồng.
6. Đỗ Văn T1 khai nhận: T1 quen biết Phạm Văn T được khoảng 15 năm. Từ khoảng tháng 6/2021, T1 được T đồng ý cho tham gia tổ chức đánh bạc qua hình thức cá độ bóng trên mạng internet. T giao cho T1 04 tài khoản trên trang Bong88, gồm 02 tài khoản tổng: “Mrkhoaizn15”, có 50.000 điểm, đô 15 (quy ước 15.000 đồng/01 điểm) tương đương 750.000.000 đồng và “Mrkhoaizn12”, có 50.000 điểm, đô 12 (quy ước 12.000 đồng/01 điểm) tương đương 600.000.000 đồng và 02 tài khoản Master gồm: “Mrkhoaisn15”, “Mrkhoaisn”, mỗi tài khoản 50.000 điểm, đô 7 (quy ước 7.000 đồng/01 điểm), tương đương 350.000.000 đồng. Từ các tài khoản tổng và tài khoản Master này, T1 chia thành nhiều tài khoản nhỏ để giao cho các đối tượng cá cược bóng đá, cụ thể:
+ Từ tài khoản “Mrkhoaizn15”, T1 chia thành 03 tài khoản “Zn752011001”, “Zn752011002”, “Zn752011006” và giao cho T2, trong đó, tài khoản “Zn752011001”, với số điểm là 1.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000 đồng/01 điểm), tương đương 30.000.000 đồng; tài khoản “Zn752011002”, với số điểm là 1.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000 đồng/01 đểm), tương đương 30.000.000 đồng; tài khoản “Zn752011006”, với số điểm 5.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000 đồng/01 đểm), tương đương 150.000.000 đồng.
+ Từ tài khoản “Mrkhoaizn12”, T1 chia ra 01 tài khoản “Zn752012001”, T1 giao cho T2 với số điểm là 5.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000 đồng/01 điểm), tương đương 150.000.000 đồng.
+ Từ tài khoản “Mrkhoaisn15”, T1 chia thành tài khoản tổng có tên “Snchung”, rồi từ đó chia thành 03 tài khoản nhỏ, trong đó: tài khoản “Sn431101001” giao cho N 20.000 điểm, đô 40 (quy ước 40.000 đồng/01 điểm) tương đương 800.000.000 đồng; tài khoản: “Sn431101002” giao cho T2 1.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000 đồng/01 điểm) tương đương 30.000.000 đồng; tài khoản “Sn431101003” giao cho người tên Ánh (không rõ nhân thân, lai lịch) 1.000 điểm, đô 50 (quy ước 50.000 đồng/01 điểm) tương đương 50.000.000 đồng nhưng Ánh không chơi nên không sao kê được kết quả cá cược.
+ Từ tài khoản Mrkhoaisn, T1 đã chia thành 04 tài khoản để giao cho T (chưa rõ lai lịch), trong đó 02 tài khoản T1 giao đô 15 (quy ước 15.000 đồng/01 điểm), 02 tài khoản giao đô 20 (quy ước 20.000 đồng/01 điểm), T1 không nhớ số điểm giao cho T và không sao kê được kết quả cá cược.
T1 có nhiệm vụ quản lý, chia tài khoản, tính toán tiền thắng, thua khi các con bạc tham gia cá cược và báo lại cho T và sau đó cùng với T tính toán tiền thắng thua với các con bạc. Tùy thuộc vào tỷ lệ hùn tiền từng lần giữa T1 và T và kết quả thắng, thua với khách cá cược mà T1 với T chia số tiền thắng, thua vào thứ 2 hàng tuần. Việc tính toán tiền với đầu trên do T thực hiện, T1 không biết T tính tiền thắng thua với đầu trên là ai. Việc tính toán tiền có thể đưa trực tiếp tiền mặt hoặc chuyển khoản ngân hàng. Từ khi tham gia tổ chức đánh bạc đến ngày bị bắt, T1 hưởng lợi số tiền 70.000.000 đồng.
Căn cứ kết quả sao kê các tài khoản cá cược bóng đá mà Phạm Văn T và Đỗ Văn T1 lấy từ Đ và D, sau đó chia tài khoản giao cho người khác để tham gia cá cược, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bản chiết tính 05 tài khoản cá cược bóng đá, kể từ ngày 01/09/2021 đến ngày 20/12/2021, T và T1 thắng 370.092.640 đồng, T2 thắng 85.952.700 đồng, D thắng 55.501.460 đồng, N thua 511.546.800 đồng.
II/ Đối với các bị can bị khởi tố về tội “Đánh bạc”:
1. Nguyễn Thanh S (là em rể của Phan Minh H) khai nhận: Từ tháng 3/2021 đến tháng 11/2021, Phan Minh H lấy các tài khoản cá cược bóng đá (không còn nhớ tên và mật khẩu), mỗi tài khoản từ 1.000 điểm đến 20.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm) từ Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn D, sau đó H giao cho S quản lý, chia tài khoản, tính toán và giao nhận tiền thắng thua với các con bạc (không rõ lai lịch) từ đô 10 (qui ước là 10.000 đồng/01 điểm) đến đô 50 (quy ước là 50.000 đồng/01 điểm) theo sự chỉ đạo của H. Đến cuối tháng 11/2021, H và S không giao tài khoản cá cược cho các con bạc và hưởng lợi được số tiền khoảng 100.000.000 đồng. Kết quả điều tra đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các con bạc mà H và S giao tài khoản nên chưa đủ cơ sở để xem xét hành vi của H và S về tội “Tổ chức đánh bạc”.
Đầu tháng 12/2021, đến ngày bị bắt, S giúp H trực tiếp quản lý 02 tài khoản cá cược: “Zn759905001” có 1.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 80.000.000 đồng, tài khoản “Zn759905002” có 20.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 160.000.000 đồng, được D chia ra từ tài khoản Agent “Zn759905” cho H trực tiếp chơi cá cược. Quá trình giúp H tự chơi cá cược 02 tài khoản này, S biết H thua khoảng 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng). Kết quả sao kê lịch sử cá cược cụ thể 01 lần đánh bạc từ tài khoản “Zn759905002” thể hiện: ngày 19/12/2021, tại giải Serie A của Ý, trận đấu bóng đá giữa 02 đội Fiorentina-Sassuolo, con bạc tham gia đặt cược 500 điểm, thắng 500 điểm, tổng số tiền đánh bạc trong trận đấu này là: (500+500) điểm x 8.000 đồng/01 điểm, số tiền 8.000.000 đồng. Từ khi tham gia “Tổ chức đánh bạc” và “đánh bạc” đến thời điểm bị bắt, S được H nuôi ăn ở, mỗi tháng cho 4.000.000 đồng, S hưởng được 40.000.000 đồng.
2. Nguyễn Văn T2 khai nhận: T2 lấy 04 tài khoản cá cược bóng đá gồm: tài khoản “Zn752011001”, có 1.000 điểm, đô 30 đô (quy ước 30.000.000 đồng/01 điểm), tương đương 30.000.000 đồng; tài khoản “Zn752012001”, có 1.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000.000 đồng/01 điểm), tương đương 30.000.000 đồng; tài khoản “Zn752011006”, có 5.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000.000 đồng/01 điểm), tương đương 150.000.000 đồng; tài khoản “Sn431101002”, có 1.000 điểm, đô 30 (quy ước 30.000.000 đồng/01 điểm), tương đương 30.000.000 đồng từ Đỗ Văn T1 cấp để tham gia cá cược bóng đá. T2 đã tham gia cá cược nhiều lần, đến khi bị bắt, T2 thắng số tiền 20.000.000 đồng.
Kết quả sao kê lịch sử cá cược cụ thể một lần đánh bạc từ tài khoản “Sn431101002” thể hiện: vào ngày 14/12/2021, tại giải bóng đá cúp quốc gia Ý, trận đấu giữa 02 đội Genoa - Salernitana, T2 tham gia đặt cược 100 điểm, thắng 94 điểm, tổng số tiền đánh bạc trong trận này là: 5.820.000 đồng; vào ngày 15/12/2021 giải ngoại hạng Trung Quốc giữa 02 đội bóng ChanchunYatai và Shenzhen FC đặt cược 200 điểm, số tiền 6.000.000 đồng.
3. Trần Huy N khai nhận: lấy tài khoản cá cược “Sn431101001”, có 20.000 điểm, đô 40 (quy ước 40.000 đồng/01 điểm), tương đương 800.000.000 đồng, từ Đỗ Văn T1 và Phạm Văn T để cá cược bóng đá. N đã cá cược nhiều lần, đến khi bị bắt, N thắng số tiền 40.000.000 đồng. Ngoài ra, N cho biết số tiền 100.000.000 đồng mà Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an thu giữ khi khám xét tại nơi ở của N là số tiền từ việc kinh doanh vật liệu xây dựng và vận tải của N mà có được, số tiền này không liên quan đến hành vi phạm tội của N.
Kết quả sao kê lịch sử cá cược cụ thể từ tài khoản “Sn431101002” thể hiện lần gần nhất như sau: Vào ngày 18/12/2021, tại giải bóng đá Ngoại hạng Anh, trận đấu bóng đá giữa 02 đội Leeds Untied-Arsenal: N tham gia đặt cược 2.000 điểm, thắng 2.000 điểm, tổng số tiền đánh bạc trong trận này là:
160.000.000 đồng; ngày 13/12 tại giải bóng đá ngoại hạng Trung Quốc giữa 02 đội Guangzhou City với Chanchun Yatai tham gia đặt cược 02 lần, mỗi lần 1.000 điểm, số tiền 120.000.000 đồng.
4. Trần Hải H khai nhận: Thông qua Lương Khắc T, H quen biết với Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn D. Trong thời gian quen biết với nhau, H biết Đ và D tổ chức đánh bạc với hình thức cá cược bóng đá trên trang mạng Internet. Khoảng tháng 8/2021, thông qua Nguyễn Văn Đ, D cấp cho H 01 tài khoản cá cược bóng đá, tài khoản “Opal160555” (cấp Master), có 100.000 điểm, đô 10 (quy ước 10.000 đồng/01 điểm), tương đương 1.000.000.000 đồng (một tỷ đồng), sau đó H chia ra thành 07 tài khoản gồm: “Zn759920001”; “Zn759920003”; “Zn759920004”; “Zn759920005”; “Zn759920006”; “Zn759920009” và tài khoản “Zn759920020”, mỗi tài khoản đều có số điểm khác nhau, từ đô 10 (quy ước 10.000 đồng/01 điểm) đến đô 20 (quy ước 20.000 đồng/01 điểm) cùng Th hùn vốn, theo tỷ lệ: H: 80%; Th: 20%, trực tiếp cá cược và giao cho một số con bạc (chưa rõ lai lịch) để tham gia cá cược. Đối với tài khoản cá cược bóng đá “Zn759920020”, có 10.000 điểm, đô 10 (quy ước 10.000 đồng/01 điểm, tương đương 100.000.000 đồng, H giữ lại cùng với Th trực tiếp tham gia cá cược bóng đá với D, tỉ lệ tham gia cá cược:
H 80%, Th 20%/ tổng số tiền tham gia cá cược. Tính đến ngày bị bắt, H hưởng lợi số tiền khoảng 40.000.000 đồng và đã tiêu xài cá nhân hết.
Kết quả điều tra cho đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh chưa xác định được nhân thân, lai lịch những người được H giao 06 tài khoản cá cược bóng đá nên chưa đủ cơ sở để xem xét hành vi của H và Th về tội “Tổ chức đánh bạc”.
Đối với tài khoản cá cược bóng đá “Zn759920020”, kết quả sao kê lịch sử cá cược: vào ngày 04/12/2021, tại giải ngoại hạng Anh, trận đấu giữa 02 đội Watford-Manchester City, H đặt cược 300 điểm, thắng 300 điểm, tổng số tiền đánh bạc trong trận này là (300 + 300) điểm x 10.000 đồng/01 điểm, số tiền 6.000.000 đồng (sáu triệu đồng), H được hưởng 4.800.000 đồng, Th được hưởng 1.200.000 đồng.
Căn cứ kết quả sao kê 07 tài khoản cá cược bóng đá mà Trần Hải H lấy từ Đ và D, sau đó H chia, cắt tài khoản giao cho người khác để cá cược, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bản chiết tính 07 tài khoản cá cược bóng đá, kể từ ngày 01/9/2021 đến ngày 20/12/2021 như sau:
Đối với 03 tài khoản: “Zn759920001”; “Zn759920003”; “Zn759920004”, H không nhớ tài khoản này giao cho con bạc có số điểm và qui ước đô bao nhiêu, do đó không đủ cơ sở xác định số tiền thắng thua của H và Th. Tuy nhiên, các tài khoản này H nhận đô 10 từ D và phù hợp với lời khai của D, căn cứ kết quả sao kê 03 tài khoản cá cược này đủ cơ sở xác định D thắng 76.564.500 đồng.
Đối với 03 tài khoản: “Zn759920005”; “Zn759920006”; “Zn759920009” mà H giao cho khách, lần lượt có số đô: 15 (qui ước 10.000 đồng/01 điểm), 20 (qui ước 20.000 đồng/01 điểm), 20 (qui ước 20.000 đồng/01 điểm). Căn cứ kết quả sao kê 03 tài khoản cá cược này thể hiện tiền thắng thua như sau: D thắng 80.707.300 đồng, H thắng 80.704.400 đồng (số tiền này chia theo tỉ lệ thì Th hưởng được 16.140.880 đồng).
Đối với tài khoản cá cược bóng đá “Zn759920020” mà H giữ lại để trực tiếp cá cược với D và được D giao đô 10. Căn cứ kết quả sao kê tài khoản cá cược này, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh có bản chiết tính tiền thắng thua như sau: D thắng 47.154.600 đồng (trong số tiền này, H thua: 37.723.680 đồng, Th thua: 9.430.920 đồng).
Căn cứ kết quả sao kê 07 tài khoản cá cược này, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã có bản chiết tính tiền thắng thua giữa H, Th và D và như sau: H thắng 26.839.840 đồng, Th thắng 6.709.960 đồng, D thắng 204.426.400 đồng.
5. Lương Khắc T khai nhận: Khoảng tháng 9/2021, Th góp vốn với Trần Hải H để tổ chức đánh bạc theo tỷ lệ: H: 80%, Th: 20%/ tổng các tài khoản cá cược bóng đá mà H lấy từ Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn Đ. Các tài khoản cá cược đều do H trực tiếp quản lý, giao dịch với đại lý cấp trên và các con bạc, Th chỉ biết tính tiền thắng, thua sau mỗi lần được H nhắn tin vào thứ 2 hàng tuần, mỗi lần nhận tin nhắn tính tiền thắng, thua do H chuyển tin đến, Th chuyển tin nhắn cho Phạm Thị Hà M (vợ Th) để lưu, theo dõi, sau đó M sử dụng tài khoản Sacombank của M để giao, nhận tiền thắng, thua theo thông tin số tiền, số tài khoản ngân hàng do H cung cấp cho Th. Tính đến ngày bị bắt, Th hưởng lợi số tiền khoảng 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng) và đã tiêu xài cá nhân hết.
6. Phạm Thị Hà M (là vợ của Lương Khắc T) khai nhận: M có vai trò giúp Th lưu, theo dõi, chuyển tiền, nhận tiền thắng thua từ việc cá cược bóng đá với Trần Hải H. Khi nhận tin nhắn tính tiền thắng, thua từ Th, M có nhiệm vụ lưu, theo dõi tin nhắn để tính tiền giúp Th, sau đó M sử dụng tài khoản Ngân hàng Sacombank của M để chuyển, nhận tiền thắng, thua với Trần Hải H.
Kết quả trích xuất dữ liệu điện tử tại mục tin nhắn trong điện thoại thu giữ của Phạm Thị Hà M, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh xác định nhiều nội dung tin nhắn giữa Th và M, liên quan đến việc tính tiền thắng, thua cá cược bóng đá, M sử dụng tài khoản Ngân hàng Sacombank của M để chuyển, nhận tiền theo thông tin tài khoản ngân hàng H cung cấp cho Th. Ngoài ra, trong mục tin nhắn Viber điện thoại của M còn lưu nhiều tin nhắn với Nguyễn Văn D có nội dung liên quan đến việc tính tiền thắng thua từ hoạt động tổ chức đánh bạc.
III/ Bị can bị khởi tố về tội “Đánh bạc” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”:
Phan Minh H (H bính) khai nhận: H quen biết với Nguyễn Văn Đ đã lâu. H biết Đ tổ chức cá cược bóng đá, D là người quản lý tài khoản cá cược bóng đá cho Đ. Khoảng tháng 3/2021, H liên lạc với D để lấy tài khoản cá cược (cấp Agent) “Zn759905” có 50.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 400.000.000 đồng. Sau đó, H giao cho cho Nguyễn Thanh S để quản lý, chia cắt tài khoản cá cược bóng đá giao cho các con bạc. H bắt đầu tham gia tổ chức đánh bạc từ tháng 6/2021 đến cuối tháng 11/2021 H thắng số tiền 100.000.000 đồng, sau đó không tiếp tục chơi và trả lại tài khoản cá cược cho D. Kết quả điều tra đến nay, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh chưa xác định được nhân thân, lai lịch của các con bạc mà H và S giao tài khoản cá cược nên chưa đủ sơ sở để xem xét hành vi của H và S về tội “Tổ chức đánh bạc”.
Đầu tháng 12/2021, H tiếp tục kêu D giao lại tài khoản cá cược bóng đá “Zn759905”, với số điểm 50.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 400.000.000 đồng, kèm theo mật khẩu đăng nhập, sau đó H nhờ D chia ra 02 tài khoản nhỏ, tài khoản “Zn759905001”, có số điểm 10.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 80.000.000 đồng; Tài khoản “Zn759905002”, có số điểm 20.000 điểm, đô 8 (quy ước 8.000 đồng/01 điểm), tương đương 160.000.000 đồng để H trực tiếp chơi cá cược, S là người tính toán tiền cá cược giúp H, số điểm 20.000 điểm còn lại trong tài khoản cá cược “Zn759905” H để dành. Với 02 tài khoản cá cược này, H khai nhận trực tiếp tham gia cá cược và thua với số tiền khoảng 10.000.000 đồng (mười triệu đồng). Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bản chiết tính tiền thắng thua 02 tài khoản cá cược bóng đá này của H, kể từ ngày 01/9/2021 đến ngày bị bắt, H thua tổng cộng 12.007.760 đồng (trong số tiền thua này, phía của Nguyễn Văn Đ và D được hưởng 4.502.910 đồng, đại lý cấp trên được 7.504.850 đồng).
Ngoài hành vi lấy tài khoản cá cược từ Nguyễn Văn Đ để đánh bạc, Phan Mạnh H còn khai nhận hành vi “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” như sau:
Khoảng đầu năm 2021, H đi Casino ở cửa khẩu Mộc Bài tỉnh Tây Ninh, H hỏi một người tên Thạo (là người Campuchia, không rõ lai lịch), mua 01 khẩu súng quân dụng để phòng thân. Thạo giới thiệu cho H một người chạy xe ôm gần cửa khẩu Mộc Bài là người Việt N (không rõ lai lịch). Sau khi gặp nhau, H đặt vấn đề mua 01 súng, đạn để phòng thân thì người này cho H biết một cây súng kèm theo đạn có giá 50.000.000 đồng (năm mươi triệu đồng), nếu mua thì đặt cọc trước 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng) và hẹn 03 ngày sau đến địa điểm cách cửa khẩu 50 mét nhận súng và H đồng ý. Đúng 03 ngày sau, H đến điểm hẹn đứng chờ một lúc thì người chạy xe ôm đi bộ đến đưa cho H một khẩu súng, 02 hộp tiếp đạn và một hộp đạn, tất cả bỏ vào một túi vải màu đen, H không đếm có tất cả bao nhiêu viên đạn rồi đưa thêm 46.000.000 đồng (bốn mươi sáu triệu đồng) cho người này. Sau đó, H chạy xe đến nhà của Nguyễn Tấn P, là bạn cùng đi lính nghĩa vụ quân sự, H nói với P là “súng mới mua bên Campuchia” và nhờ P cất giữ dùm. Trước khi gửi túi vải màu đen đựng súng và 02 hộp tiếp đạn cho P, H đã lấy toàn bộ khay đựng đạn (36 viên) ra, H mang khay đạn về nhà H tại căn hộ B10.12 Chung cư S, ấp 5, xã P, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, cất trong tủ quần áo.
Khoảng tháng 6/2021, H đến nhà P lấy lại túi vải màu đen đựng khẩu súng và 02 hộp tiếp đạn, trên đường đến nhà P, H mang khay đựng 36 viên đạn theo. Sau khi P đưa túi vải màu đen đựng súng và 02 hộp tiếp đạn, H bỏ khay đựng 36 viên đạn vào trong túi vải màu đen rồi mang đến nhà của Nguyễn N (tên gọi khác: N mập; sinh năm: 1986; địa chỉ tổ 36, ấp Trung Thành, xã Quảng Thành, huyện C, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) nhờ N cất giữ, sau đó H chạy xe về nhà.
Khoảng 01 tuần sau, H đến nhà Nguyễn Phan Quốc D chơi và nói cho D biết: H đang gửi khẩu súng tại nhà Nguyễn N nên D kêu H đưa súng để D cất dùm nên H đồng ý. Sau đó, H điện thoại cho N mang túi vải đựng súng, 02 hộp tiếp đạn, khay đựng 36 viên đạn qua nhà đưa cho D cất giữ, sau khi đưa súng cho D, N mập điện thoại cho H để xác nhận việc này.
Khoảng tháng 10/2021, H đến nhà kêu D đưa túi vải màu đen đựng súng cho H, đến tối cùng ngày, H đem súng ra nghĩa địa gần nhà của D cài 06 viên vào 01 hộp tiếp đạn và bắn thử 02 phát lên trời, có 01 phát nổ và 01 phát không nổ, sau đó H cài lại 02 viên khác bổ sung vào hộp tiếp đạn này. Khoảng 02 tiếng sau, H đem túi vải đựng súng, 02 băng tiếp đạn (trong đó có 01 băng tiếp đạn đã được H cài sẵn 06 viên đạn) và khay đựng 28 viên đạn tiếp tục đến nhà D đưa cho D cất giữ cho đến ngày 20/12/2021 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt, khám xét và thu giữ.
Căn cứ kết quả điều tra đến nay, H không xác định chính xác địa điểm bắn đạn, Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an và Công an Thành phố Hồ Chí Minh không thu giữ được vỏ đạn nên chưa đủ cơ sở xác định thêm hành vi “Sử dụng trái phép vũ khí quân dụng” của H. Đối với Nguyễn N không thừa nhận có hành vi cất giữ khẩu súng của H, quá trình điều tra chưa đủ cơ sở đề xem xét xử lý về tội Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng.
IV/ Các bị can bị khởi tố về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”:
1. Nguyễn Tấn P khai nhận: P quen biết Phan Minh H từ năm 2001 (cùng đi nghĩa vụ quân sự). Khoảng tháng 02/2021, H và Nguyễn N (N Mập) đi xe ô tô nhãn hiệu Mazda CX5 màu xanh đến nhà Nguyễn Tấn P. Khi đến nhà, H là người vào nhà, nói với P: “cho tao gửi giỏ đồ” và đưa cho P một túi xách màu đen có quai đeo. Khi đó, P không kiểm tra nhưng biết được bên trong túi có súng. P đồng ý và mang vào nhà cất giấu vào ngăn tủ quần áo trong phòng ngủ của P. 03 ngày sau, P mở túi xách ra kiểm tra thấy đồ vật H gửi giữ là một khẩu súng ngắn được bọc trong một túi vải màu trắng, kèm theo 02 hộp tiếp đạn nhưng không có đạn, do từng đi bộ đội nên P biết rõ đây là khẩu súng quân dụng. Sau đó, P mang túi màu đen đựng khẩu súng, 02 hộp tiếp đạn cất giấu vào nhà vệ sinh (nhà vệ sinh không sử dụng). Đến tháng 6/2021, H đến nhà gặp P lấy lại túi đựng khẩu súng, 02 hộp tiếp đạn mang đi đâu thì P không rõ. Trong thời gian giữ súng cho H, P không sử dụng khẩu súng, không biết H có súng để sử dụng vào mục đích gì.
2. Nguyễn Phan Quốc D (là em họ với Phan Minh H) khai nhận: Khoảng tháng 10/2021 (D không nhớ rõ ngày, tháng), Phan Minh H đến nhà Nguyễn Phan Quốc D chơi, nói cho D biết H đang gửi khẩu súng quân dụng tại nhà Nguyễn N nên D kêu H đưa súng để D cất giữ dùm, H đồng ý. Sau đó, H điện thoại cho N mập mang túi vải màu đen đựng súng, 02 hộp tiếp đạn, khay đựng 36 viên đạn qua nhà đưa cho D cất giữ. Thời gian sau đó (không nhớ rõ), H đến nhà kêu D đưa túi vải màu đen đựng súng cho H rồi đi đâu không rõ. Đến sáng hôm sau, H tiếp tục đem túi vải màu đen đựng súng, 02 băng tiếp đạn, 34 viên đạn đến nhà đưa D cất giữ cho đến ngày 20/12/2021 bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt.
Ngoài hành vi “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”, D còn liên lạc lấy tài khoản cá cược bóng đá của Phan Minh H, Nguyễn Thanh S và Nguyễn Văn D như sau:
Khoảng tháng 6/2021, D liên lạc với Phan Minh H lấy tài khoản cá cược bóng đá với số điểm 5.000 điểm, đô 9, tức là 9.000 đồng/01 điểm, (tương đương 45.000.000 đồng), sau đó Nguyễn Thanh S nhắn tin giao cho D tài khoản cá cược (không nhớ tên tài khoản), có số điểm là 2.000 điểm, đô 10, tức là 10.000 đồng/01 điểm (tương đương 20.000.000 đồng). Tài khoản cá cược bóng đá này D tham gia cá cược, không giao cho ai, sau đó trả lại cho Nguyễn Thanh S. Đến khoảng tháng 9/2021, thông qua Cao D H, D liên lạc với Nguyễn Văn D để lấy 01 tài khoản cá cược bóng đá (không nhớ tên tài khoản), có 1.000 điểm, đô 14, tức là 14.000/01 điểm (tương đương 14.000.000 đồng). Sau đó, D giao tài khoản cá cược này cho người bạn tên Tú (chưa xác định), D lại giao cho Tú với giá đô qui ước là 20, tức 1 điểm 20.000 đồng (tương đương 20.000.000 đồng). Tú tự chơi cá cược thua 18.000.000 đồng, Tú xoá tài khoản cá cược và trả cho D 4.000.000 đồng, Tú trả cho D 14.000.000 đồng. Số tiền thu lợi bất chính 4.000.000 đồng, D tiêu xài cá nhân hết. Tuy nhiên qua kiểm tra, không sao kê và trích xuất được dữ liệu thể hiện việc đánh bạc của D nên không khởi tố điều tra.
Tại bản kết luận số 275/C09B ngày 21/12/2021 của Phân viện Khoa học kỹ thuật hình sự Bộ Công an tại Thành phố Hồ Chí Minh về 02 khẩu súng và đạn như sau:
- Khẩu súng ngắn CZ75 là súng quân dụng CZ75, cỡ nòng 9mm, số hiệu B6894. Súng sử dụng để bắn với loại đạn quân dụng cỡ 9x19mm.
- 34 viên đạn, đầu bọc kim loại gửi giám định là đạn quân dụng, cỡ 9x19mm. Loại đạn này thường được sử dụng bắn với một số loại súng cỡ nòng 9mm như: CZ75 (Séc), Glock G17 (Austria), MKE MP5-KN (Tây Đức)… - Khẩu súng CZ75 cỡ nòng 9mm, số hiệu B6894 và khẩu súng STREAMMER 2014-RBD9, số hiệu 1019-000169 gửi giám định không bắn ra các đầu đạn, vỏ đạn của các vụ án hiện lưu giữ trong tàng thư súng đạn của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh. (Súng, đạn thu giữ của bị can Phan Minh H) - Khẩu súng ngắn bằng kim loại, ốp tay cầm bằng gỗ, trên thân súng có ký hiệu: STREAMMER 2014-RBD9, số hiệu 1019-000169 là công cụ hỗ trợ, không phải vũ khí quân dụng. Súng sử dụng để bắn với đạn công cụ hỗ trợ cỡ (9x22)mm.
- 90 viên đạn, đầu đạn cao su gửi giám định là đạn công cụ hỗ trợ, cỡ 9x22mm, không phải vũ khí quân dụng. Đạn sử dụng để bắn với một số loại sung công cụ hỗ trợ cỡ 9mm.
- Khẩu súng STREAMMER 2014-RBD9, số hiệu 1019-000169 gửi giám định không bắn ra các đầu đạn, vỏ đạn của các vụ án hiện lưu giữ trong tàng thư súng đạn của Phân Viện khoa học hình sự tại Thành phố Hồ Chí Minh. (Súng, đạn thu giữ của bị can Cao D H) Tại bản kết luận giám định số 1230/KL-KTHS ngày 05/04/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận những công cụ hỗ trợ khác như sau:
- 01 (một) dao bầu dài khoảng 48cm, cán bằng gỗ dài khoảng 15cm, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng dài khoảng 33cm: là đao thuộc nhóm vũ khí thô sơ - 01 (một) cây gậy đánh bóng chày, bên ngoài được sơn màu đỏ: là gậy bóng chày thường sử dụng trong môn thể thao bóng chày, không thuộc nhóm vũ khí, công cụ hỗ trợ - 01 (một) cây côn nhị khúc bằng kim loại màu trắng: là công cụ thuộc nhóm vũ khí thô sơ - 01 (một) cây ba khúc bằng kim loại, dài khoảng 63cm, có tay cầm bằng cao su màu đen: là dùi cui kim loại thuộc nhóm công cụ hỗ trợ - 01 (một) cây ba khúc bằng kim loại, dài khoảng 65cm, có tay cầm bằng cao su màu đen: là dùi cui kim loại thuộc nhóm công cụ hỗ trợ - 01 (một) dao bấm màu đen, dài khoảng 23cm: là dao găm thuộc nhóm vũ khí thô sơ - 01 (một) cây rựa dài gần 80cm, cán bằng gỗ dài khoảng 48cm, lưỡi rựa bằng kim loại dài khoảng 32cm: là rựa thường sử dụng trong sản xuất nông, lâm nghiệp, không thuộc nhóm vũ khí, công cụ hỗ trợ - 01 (một) cây đèn pin màu đen, có nút bấm roi điện, dài khoảng 43cm: là đèn pin có tính năng phóng điện, thuộc nhóm công cụ hỗ trợ - 04 (bốn) bình xịt hơi cay hiệu Take Down: là công cụ hỗ trợ (thu giữ của Cao D H) Ngoài ra, kết quả kiểm tra tài khoản cá cược của Nguyễn Văn D còn thể hiện:
Giao tài khoản cá cược bóng đá Zn759999020 bị can Nguyễn Văn D 3.000 điểm, 20.000 đồng/điểm, số tiền 600.000.000 đồng giao cho tài khoản có tên “Bác Hồng” số điện thoại 0916104366 là của Đặng Bình Hồng địa chỉ phường Trần Bình Ngọ, quận Kiến An, Thành phố Hải Phòng. Xác minh tại Công an phường, Hồng bỏ địa phương đi đâu không rõ nên chưa làm việc được.
Giao tài khoản cá cược bóng đá cho người có tên “Ông Bằng” số điện thoại 0965002425, 0903601547 (không xác định được tài khoản và dữ liệu). Qua xác minh các số điện thoại trên do Nguyễn Bá T địa chỉ xã Cát Trinh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định đứng tên thuê bao. Cơ quan điều tra đã ủy thác cho Công an huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định ghi lời khai Nguyễn Bá T nhưng chưa có kết quả trả lời.
Giao tài khoản cá cược bóng đá Zn7530 100.000 điểm, số tiền 600.000.000 đồng; tài khoản Zn7531 1.000 điểm, số tiền 600.000.000 đồng cho người có tên “H Xăm” địa chỉ phường Bình Thắng, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình D. Kết quả xác minh tại địa phương có tên Lê Xuân H. H trình bày không tham gia cá cược bóng đá và lấy tài khoản bóng đá từ bất kỳ ai.
Giao tài khoản cá cược bóng đá Zn7540 100.000 điểm, số tiền 600.000.000 đồng cho người có tên Tài BH địa chỉ phường Long Bình Tân, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Xác minh tại địa phương có tên Phùng Thế Tài. Tài trình bày không tham gia cá cược bóng đá và lấy tài khoản cá cược từ bất kỳ ai.
Giao tài khoản cá cược bóng đá FP1N9999001 2.000 điểm, số tiền 16.000.000 đồng cho Phan Hòa Bình, Bình đặt cược từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng, không nhớ rõ đặt cược bao nhiêu lần, tuy nhiên qua kiểm tra không sao kê được tài khoản nên không có cơ sở để xem xét khởi tố điều tra.
Giao tài khoản cá cược bóng đá cho Nguyễn Văn T2 sinh năm 1990 địa chỉ thị trấn Cát Hải, huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng. Qua điều tra, xác minh T không quen biết và không lấy tài khoản cá cược từ Đ và D.
Giao tài khoản cá cược bóng đá Zn759999001 1.000 điểm, số tiền 10.000.000 đồng cho Nguyễn Tấn C có tên A Cường Bà Rịa. Qua điều tra, xác minh Cường không thừa nhận và không phát hiện thông tin, dữ liệu liên quan đến việc đánh bạc nên không có cơ sở xem xét khởi tố điều tra.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã T2 xử:
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 322 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự;
1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Phạm Văn T cho Ủy ban nhân dân phường T, thành phố B, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
2. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T1 03 (ba) năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”; nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 05 (năm) năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Đỗ Văn T1 cho Ủy ban nhân dân phường H, thành phố B, tỉnh Đồng Nai giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
3. Xử phạt bị cáo Cao D H 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Cao D H cho Ủy ban nhân dân phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự 4. Xử phạt bị cáo Lầu Văn T 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc” nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Lầu Văn T cho Ủy ban nhân dân phường T, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 5. Xử phạt bị cáo Trần Huy N 03 (ba) năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án được trừ đi thời hạn tạm giam trước đó từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2021 Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 6. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc”; nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Văn T2 cho Ủy ban nhân dân phường T, thành hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
7. Xử phạt bị cáo Trần Hải H 02 (hai) năm tù về tội “Đánh bạc”; nhưng cho bị cáo hưởng án treo; Thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Trần Hải H cho Ủy ban nhân dân phường Hiệp Bình Chanh, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự.
8. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”; nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (ba) năm kể từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo Nguyễn Thanh S cho Ủy ban nhân dân xã P, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 9. Xử phạt bị cáo Phan Minh H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Đánh bạc”; 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;
Tổng hợp hình phạt của hai tội là 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/12/2021 Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 10. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Quốc D 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án trừ đi thời gian tạm giam trước đó từ ngày 21/12/2021 đến ngày 02/8/2022.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn xử phạt các bị cáo khác mức án từ 01 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo đến 05 năm tù; tuyên về xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp, án phí và quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 04/4/2023 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có Quyết định kháng nghị số 13/KNPT-VKS-P2 đề nghị Toà án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm sửa một phần Bản án sơ thẩm theo tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo Phạm Văn T, Đỗ Văn T1, Cao D H, Lầu Văn T, Trần Hải H, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn T2; tăng nặng hình phạt đối với các bị cáo Trần Huy N, Phan Minh H và Nguyễn Phan Quốc D.
Ngày 3/3/2023 bị cáo Trần Huy N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo vì bị cáo là lao động chính trong gia đình, là con trong gia đình có công với cách mạng.
Ngày 10/4/2023 bị cáo Nguyễn Phan Quốc D có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo vì mức án 01 năm tù là quá nặng.
Tại phiên tòa phúc thẩm;
Bị cáo Nguyễn Phan Quốc D có đơn xin xét xử vắng mặt với lý do bị cáo bị bệnh suy thận biến chứng và hiện đang phải chạy thận nên không thể tham gia phiên toà.
Bị cáo Nguyễn Thanh S cung cấp biên lai số 0002096 ngày 20/9/2023 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện bị cáo một một phần tiền thu lợi bất chính là 20.000.000 đồng.
Bị cáo Trần Hải H cung cấp hồ sơ bệnh án bị cáo bị ghép thận 02 lần, hiện nay bị tăng huyết áp, rối loạn lypít máu, tiếp tục uống thuốc chống thải ghép; cung cấp Huân chương kháng chiến hạng nhì đối với ông Trần Văn Tuyến (cha ruột bị cáo), Huân chương kháng chiến hạng ba cho bà Nguyễn Thị Như (mẹ bị cáo) Bị cáo Nguyễn Thanh S cung cấp bằng liệt sĩ Bùi Văn Rớt là ông ngoại của bị cáo.
Bị cáo Phan Minh H cung cấp chứng cứ có hoàn cảnh gia đình khó khăn cụ thể; hồ sơ bệnh án của mẹ ruột bị cáo là Ngô Thị Tình bị bệnh lao hô hấp, em ruột bị cáo là Phan Thị Hồng Xoan bị rối loạn tâm thần và hành vi do tổn thương não và rối loạn chức năng não và bệnh lý cơ thể.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần Quyết định kháng nghị số 13/KNPT-VKS-P2 ngày 04/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trần Huy N.
Các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như án sơ thẩm quy kết, các bị cáo Trần Huy N giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát xét xử phúc thẩm phát biểu:
Đối với bị cáo Trần Huy N: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đã rút kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo, và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần tăng hình phạt đối với bị cáo N.
Đối với bị cáo Trần Hải H: Tại phiên toà bị cáo cung cấp hồ sơ bệnh án ghép thận và đang tiếp tục phải điều trị uống thuốc chống thải ghép và cung cấp thêm huân chương kháng chiến hạng nhì, ba của cha mẹ bị cáo, do đó Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đối bị cáo Trần Hải H về tăng hình phạt đối với bị cáo, không cho bị cáo hưởng án treo. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận và đình chỉ xét xử phúc thẩm kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trần Hải H.
Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo Trần Huy N và Nguyễn Phan Quốc D: Bị cáo N chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo nhưng có 01 tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 03 năm tù là khởi điểm của khung hình phạt, là phù hợp nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt cũng như cho bị cáo hưởng án treo được.
Bị cáo D có nhân thân xấu, có 01 tiền án và phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm nên mức án 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng là nhẹ nên không có căn cứ giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo hưởng án treo được.
Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin hưởng án treo của bị cáo N và D.
Xét kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đối với cac bị cáo Phạm Văn T, Lầu Văn T, Cao D H, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn T2, Phan Minh H, Nguyễn Phan Quốc D, Đỗ Văn T1:
Các bị cáo này chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ theo khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự, trong khi đó các bị cáo đều có tình tiết tăng nặng theo Điều 52 Bộ luật hình sự, vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, sửa Bản án sơ thẩm tăng hình phạt đối với các bị cáo và không có hưởng án treo:
Đề nghị: xử phạt cáo Phạm Văn T từ 06 đến 07 năm tù Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T1 từ 06 đến 07 năm tù Xử phạt bị cáo Phan Minh H từ 03 đến 04 năm tù Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Quốc D từ 03 đến 4 năm tù.
Đối với các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S thì Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh xin rút nội dung kháng nghị tăng hình phạt và giữ nguyên nội dung: Đề nghị không cho các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S được hưởng án treo.
Luật sư bào chữa cho bị cáo Phan Minh H, Trần Hải H, Nguyễn Thanh S, Nguyễn Phan Quốc D phát biểu:
Đối với bị cáo Trần Hải H bị bệnh hiểm nghèo phải ghép thận và hiện nay tiếp tục điều trị chống thải ghép và cha mẹ bị cáo đều là người có công với cách mạng nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đối với bị cáo Trần Hải H.
Đối với bị cáo Nguyễn Phan Quốc D thì bị cáo cũng bị suy thận độ 4 và cũng phải chạy thận nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo hưởng án treo để có điều kiện điều trị bệnh.
Đồi với bị cáo Nguyễn Thanh S: Toà án cấp sơ thẩm chưa xem xét tình tiết giảm nhẹ là bị cáo có ông bà nội, ông bà ngoại đều là liệt sĩ và trong thời gian chuẩn bị xét xử phúc thẩm bị cáo đã nộp 20.000.000 đồng tiền thu lợi bất chính. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Đối với bị cáo Phan Minh H: bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn mẹ bị cáo bị bệnh lao phổi, em ruột bị cáo bị bệnh tâm thần nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Cơ quan tiến hành tố tụng tại giai đoạn sơ thẩm đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.
[2] Bị cáo Nguyễn Phan Quốc D có đơn xin xét xử vắng mặt với lý do bị cáo bị bệnh suy thận biến chứng và hiện đang phải chạy thận nên không thể tham gia phiên toà (có hồ sơ bệnh án kèm theo). Hội đồng xét xử căn cứ Điều 351 Bộ luật tố tụng hình sự tiến hành xét xử vụ án theo quy định.
[3] Vì mục đích tư lợi, Từ đầu năm 2020 Nguyễn Văn Đ trực tiếp lấy tài khoản tổng trên trang web cá cược Bong88.com (cấp Master) từ đối tượng tên Khang (chưa rõ lai lịch) là đại lý cấp trên về chia ra nhiều tài khoản khác nhau (cấp Agent) và giao tài khoản cho Nguyễn Văn D quản lý chia ra nhiều tài khoản nhỏ giao cho các con bạc để tổ chức đánh bạc, thu lợi bất chính. D được Đ trả công 280.000.000 đồng. Căn cứ vào bản trích xuất dữ liệu cá cược bóng đá, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã có bản chiết tính số tiền hưởng lợi từ việc “Tổ chức đánh bạc” của Đ và D là 116.590.690 đồng.
Các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T góp tiền cùng với Đ và D để tổ chức đánh bạc với các con bạc, trong đó H tham gia góp 5.000 đồng/01 điểm trong 02 tài khoản các cược “Zn75999020” và “Zn759900”; bị cáo T góp 1.000 đồng/01 điểm trong 01 tài khoản cá cược tên “Zn75999020” Phạm Văn T, Đỗ Văn T1 đã nhận tài khoản từ Nguyễn Văn Đ sau đó giao lại cho Nguyễn Văn T2 và Trần Huy N để tổ chức đánh bạc. T hưởng lợi 60.000.000 đồng, T1 hưởng lợi 70.000.000 đồng. Sau khi nhận tài khoản từ Đ, T và T1 còn nâng số tiền trên số điểm để trực tiếp đánh bạc.
Các bị cáo Nguyễn Thanh S, Trần Hải H và Lương Khắc T nhận tài khoản từ Nguyễn Văn D và Nguyễn Văn Đ để giao cho các con bạc khác và giữ lại 01 số tài khoản để tham gia đánh bạc.
Phan Minh H lấy tài khoản từ Nguyễn Văn Đ từ tháng 3/2021 để đánh bạc đến tháng 12/2021, hưởng lợi 87.992.240 đồng. Ngoài ra đầu năm 2021 H còn mua 01 khẩu súng, 02 hộp tiếp đạn đem về nhà cất giữ, sau đó đem đến nhà Nguyễn Tấn P nhờ cất giữ dùm. Đến tháng 6/2021 H mang súng đến nhà Nguyễn N nhờ cất giữ và khoảng 01 tuần sau H nhờ Nguyễn Phan Quốc D cất giữ.
[4] Quá trình điều tra, xét xử sơ thẩm và tại phiên toà phúc thẩm các bị cáo đã khai nhận diễn biến hành vi phạm tội như nêu trên. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội đã xâm phạm đến trật tự an toàn công cộng và hoạt động quản lý độc quyền của Nhà Nước về cất giữ các loại vũ khí quân dụng.
[5] Hành vi của các bị cáo Phạm Văn T, Đỗ Văn T1, Cao D H và Lầu Văn T đã cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” trong đó các bị cáo T, T1 bị áp dụng các tình tiết định khung tăng nặng sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điển tử để phạm tội và thu lợi bất chính 50.000.000 đồng trở lên theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự, các bị cáo H, T bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điển tử để phạm tội theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 322 Bộ luật Hình sự.
[6] Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn T2, Trần Hải H, Nguyễn Thanh S và Trần Huy N đã cấu thành tội “Đánh bạc”; trong đó bị cáo N bị áp dụng 02 tình tiết định khung tăng nặng sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điển tử để phạm tội và tiền hoặc hiện vật dùng đánh bạc trị giá 50.000.000 đồng trở lên theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 321 Bộ luật Hình sự; các bị cáo T2, Hải H và S bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điển tử để phạm tội theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự.
[7] Hành vi của bị cáo Phan Minh H đã cấu thành các tội “Đánh bạc”, thuộc trường hợp sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội, theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 321 và tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[8] Hành vi của bị cáo Nguyễn Phan Quốc D đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo khoản 1 Điều 304 Bộ luật Hình sự.
[9] Xét tại phiên toà đại diện Viện kiển sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút một phần kháng nghị về tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Huy N, Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S, Trần Hải H và không cho bị cáo Trần Hải H hưởng án treo. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 342, 348 Bộ luật tố tụng hình sự, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần kháng nghị về bị cáo Trần Huy N và Trần Hải H, đình chỉ xét xử đối với phần kháng nghị về tăng hình phạt các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S.
[10] Xét kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với các bị cáo Phạm Văn T, Đỗ Văn T1; tăng hình phạt đối với các bị cáo Phan Minh H và Nguyễn Phan Quốc D; Không cho các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2 và Nguyễn Thanh S được hưởng án treo; Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:
[10.1] Đây là vụ án tổ chức đánh bạc và đánh bạc có quy mô lớn do Nguyễn Văn Đ và Nguyễn Văn D cầm đầu, điều hành, các bị cáo đã sử dụng mạng internet và các phương tiện điện tử khác để tổ chức cho các con bạc cá độ bóng đá. Đối với đối tượng Đ, quá trình điều tra bị tâm thần, cơ quan điều tra tách ra xử lý sau. Đối với bị cáo D là kẻ có vai trò chính trực tiếp quản lý, điều hành, chỉ đạo các bị cáo khác thực hiện hành vi phạm tội, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo D mức án 05 năm tù về tội “tổ chức đánh bạc”, khởi điểm của khung hình phạt là quá nhẹ không đảm bảo công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên bị cáo không bị kháng nghị nên Hội đồng xét xử phúc thẩm không có thẩm quyền tăng án đối với bị cáo, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm có văn bản kiến nghị Chánh án Toà án tối cao, Viện trưởng VKSNDTC kháng nghị huỷ 01 phần Bản án sơ thẩm đối với bị cáo D. Trong vụ án này, các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Phạm Văn T và Đỗ Văn T1 tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức tích cực cho D và Đ trong việc tổ chức đánh bạc; bị cáo T, D H cùng góp tiền với Đ và D, cụ thể H góp vào 02 tài khoản cá cược theo tỷ lệ 5.000đồng/1 điểm; T góp vào 01 tài khoản cá cược với tỷ lệ 1.000đồng/01 điểm. Bị cáo T trực tiếp nhận các tài khoản cá cược từ D sau đó giao cho bị cáo T1 quản lý và hùn vốn với T1 tiếp tục chia nhỏ thành nhiều tài khoản cá cược để cho các con bạc tham gia cá cược. Kết quả sao kê tài khoản cá cược thì T và T1 thắng 370.092.620 đồng. Các bị cáo T, T1, D H và T bị xét xử theo khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù, hai bị cáo T và T1 bị áp dụng 02 tình tiêt định khung tăng nặng theo điểm b, c khoản 2 Điều 322 Bộ luật hình sự và cả 04 bị cáo này đều bị áp dụng tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, trong khi đó các bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo này dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho các bị cáo hưởng án treo là không đúng pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với bị cáo Phạm Văn T và Đỗ Văn T1. Riêng đối với các bị cáo Cao D H và Lầu Văn T thì như đoạn trên đã nhận định đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh rút kháng nghị về tăng hình phạt đối với hai bị cáo này và chỉ đề nghị chấp nhận kháng nghị về nội dung không cho cáo bị cáo này hưởng án treo, vì vậy Hội đồng xét xử chuyển hình phạt 02 năm 06 tháng tù cho hưởng án treo đối với bị cáo D H, Lâu Văn T sang 02 năm 06 tháng tù giam.
[10.2] Đối với các bị cáo Trần Huy N, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S và Phan Minh H; Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo bị áp dụng tình tiết định khung tăng nặng theo điểm c khoản 2 Điều 312 Bộ luật hình sự có mức hình phạt từ 03 năm đến 07 năm tù, trong đó bị cáo N còn bị áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng tiền dùng đánh bạc 50.000.000 đồng trở lên theo điểm b khoản 2 Điều 321 Bộ luật hình sự, bị cáo H cùng một lúc phạm nhiều tội, ngoài ra các bị cáo còn phải chịu tình tiết tăng nặng phạm tội 02 lần trở lên theo điểm g khoản 1Điều 52 Bộ luật hình sự, trong khi đó các bị cáo chỉ có 01 tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Vì vậy việc Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo N ở mức khởi điểm của khung hình phạt là nhẹ, không nghiêm, xử phạt các bị cáo S, T2 và H dưới mức thấp nhất của khung hình phạt và cho bị cáo T2, bị cáo S hưởng án treo là không đúng quy định của pháp luật. Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Phan Minh H. Đối với bị cáo Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thành S thì tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh chỉ đề nghị chấp kháng nghị về không cho cáo bị cáo này hưởng án treo, vì vậy Hội đồng xét xử chuyển hình phạt 02 năm tù cho hưởng án treo đối với bị cáo Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn T2 sang 02 năm tù giam.
Hội đồng xét xử phúc thẩm có văn bản kiến nghị Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm huỷ một phần Bản án phúc thẩm và sơ thẩm đối với hai bị cáo này để xét xử lại theo hướng tăng hình phạt đối với Cao D H, Lầu Văn T,Nguyễn Thanh S, Nguyễn Văn T2 để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
[10.3] Đối với bị cáo Nguyễn Phan Quốc D có nhân thân xấu có 01 tiền án về tội huỷ hoại tài sản đã có 01 thời gian sống trong trại cải tạo dưới sự giám sát giáo dục của Nhà nước nhưng sau khi ra trại lại tiếp tục phạm tội, bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Toà án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo mức án 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép quân dụng là nhẹ.
[10] Với các căn cứ và lập luận nêu trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng không có cơ sở chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của bị cáo N và bị cáo D. Mặc dù, tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo S có cung cấp biên lai nộp một phần tiền thu lợi bất chính 20.00.000 đồng, gia đình có công với cách mạng, bị cáo H cung cấp tình tiết gia đình có hoàn cảnh khó khăn đây chỉ là tình tiết giảm nhẹ theo khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, do đó Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh như phân tich trên
[11] Quan điểm của luật sư bào chữa cho các bị cáo D, bị cáo H, bị cáo S đề nghị bác kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh là không có căn cứ chấp nhận.
[12] Án phí hình sự phúc thẩm: Do kháng cáo không được chấp nhận nên các bị cáo N, D phải chịu tiền án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.
[13] Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ Điều 342; Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc tăng hình phạt đối với các bị cáo Trần Huy N, Cao D H, Lầu Văn T, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S; Tăng hình phạt và không cho hưởng án treo đối với bị cáo Trần Hải H.
Quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Trần Hải H kể từ ngày 29/12/2023.
Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 355, điểm a, d khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo của các bị cáo Trần Huy N, Nguyễn Phan Quốc D.
Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị số 13/QĐ-VKS-P1 ngày 04/4/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh.
Sửa Bản án sơ thẩm số 97/2023/HS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về phần quyết định hình phạt đối với các bị cáo Cao D H, Lầu Văn T, Phạm Văn T, Đỗ Văn T1, Nguyễn Văn T2, Nguyễn Thanh S, Phan Minh H và Nguyễn Phan Quốc D.
Tuyên xử:
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 322 ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58, Điều 38 Bộ luật Hình sự;
1. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022.
2. Xử phạt bị cáo Đỗ Văn T1 05 năm tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 322; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 58; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
3. Xử phạt bị cáo Cao D H 02 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 21/3/2023.
4. Xử phạt bị cáo Lầu Văn T 02 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 21/3/2023.
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 5. Xử phạt bị cáo Trần Huy N 03 năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án được trừ đi thời hạn tạm giam trước đó từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2021 Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 54; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 6. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 02 năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 21/12/2021 đến ngày 27/12/2022.
7. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh S 02 năm tù về tội “Đánh bạc”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tình từ ngày bắt bị cáo đi chấp hành án nhưng được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 21/12/2021 đến ngày 18/5/2022.
Căn cứ điểm c khoản 2 Điều 321; khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38; Điều 55 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 8. Xử phạt bị cáo Phan Minh H 03 năm tù về tội “Đánh bạc”; 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”;
Tổng hợp hình phạt của hai tội buộc bị cáo phải chấp hành là 04 năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/12/2021.
Căn cứ khoản 1 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 9. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan Quốc D 01 (một) năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”; Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo chấp hành án trừ đi thời gian tạm giam trước đó từ ngày 21/12/2021 đến ngày 02/8/2022.
Các quyết định khác của Bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 1022/2023/HS-PT về tội tổ chức đánh bạc
Số hiệu: | 1022/2023/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/12/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về