Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 04/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH TRỊ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 04/2024/HS-ST NGÀY 26/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC ĐÁNH BẠC

Trong ngày 26 tháng 01 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh S, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 01/2024/TLST- HS ngày 05 tháng 01 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2024/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Quách Thị Q, sinh ngày 04/8/1982; Nơi đăng ký HKTT: ấp C, thị trấn H, huyện T, tỉnh S; Chổ ở: ấp X, thị trấn H, huyện T, tỉnh S; Nghề nghiệp: Buôn bán; Trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Hoa; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Quách Văn H, sinh năm 1958 (chết) và Nguyễn Thị H1, sinh năm: 1963 (sống); Chồng, con: Dương Thanh T, sinh năm 1982 và 02 người con (sinh năm 2006); Tiền án, tiền sự: Không có; Nhân thân: Không có án tích; bị cáo tại ngoại và bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú (bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Ông Nguyễn Văn K, sinh năm 1970 (vắng mặt). Địa chỉ: ấp X, thị trấn H, huyện T, tỉnh S.

+ Bà Nguyễn Thị Thanh N, sinh năm 1973 (có mặt). Địa chỉ: ấp X, thị trấn H, huyện T, tỉnh S.

+ Ông Danh Tùa H2, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: ấp G, thị trấn H, huyện T, tỉnh S.

+ Bà Danh Thị B, sinh năm 1985 (có mặt).

Địa chỉ: ấp G, thị trấn H, huyện T, tỉnh S.

+ Bà Thạch Thị L, sinh năm 1968 (có mặt).

Địa chỉ: ấp S, thị trấn H, huyện T, tỉnh S

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào 14 giờ 48 phút ngày 06/8/2019, Cơ quan CSĐT Công an huyện T, tỉnh S đã tiến hành kiểm tra phát hiện và bắt quả tang bà Q đang bán số đề cho ông Tùa H2 tại ấp X, thị trấn H, huyện T. Tại thời điểm bị bắt quả tang ông Tùa H2 mua số lô 02 con, 5.000 đồng đối với con số 62 của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh B, nhưng chưa kịp giao tiền. Tại hiện trường Cơ quan CSĐT Công an huyện T thu giữ nhiều phơi đề của bà Q bán số đầu, số đuôi, số lô, số đá của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh M và Miền B1. Qua chứng cứ thu thập trong ngày 05/8/2019, bà Quách Thị Q đã bán số đề của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Đ, Cà Mau và thành phố Hà Nội cho người mua như ông Danh Tùa H2, Nguyễn Văn K, Danh Thị B, Nguyễn Thị Thanh N, Thạch Thị L, bà N1 và ông C (bl 386), ông M, ông M1, T1 và bà Ý (bl 385), Em (bl 380), P (bl 372), bà H (bl 381) được số tiền, cụ thể:

Xổ số của đài Đồng Tháp và Cà Mau (bút lục 131, 370-380, 382-385, 387-388, 390): Tổng số tiền bán cho những người mua đề là 30.149.000 đồng, trong đó bán số đề của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh Đ là 22.735.000 đồng, của Công ty xổ số kiến thiết tỉnh C là 4.194.000 đồng, số đá 02 đài xổ số kiến thiết Đồng Tháp và Cà Mau là 3.220.000 đồng. Kết quả trúng đầu đuôi số 27, 29, 49 và 50; số lô 01, 04, 49 và 94; số đá của đài Đồng Tháp và đầu đuôi số 45; số lô 45 và 94; số đá Cà Mau là 15.285.000 đồng. Như vậy, số tiền Quách Thị Q dùng đánh bạc (bao gồm tiền mua số và tiền trúng số) của đài Đồng Tháp và Cà Mau là 43.434.000 đồng Xổ số của đài M3 (bút lục 369, 371): Tổng số tiền bán cho người mua đề là 17.490.000 đồng, kết quả trúng số đầu con số 57; số lô 12, 45, 49, 57, 68, 72, 76 và 94; số đá của đài Miền B1 là 21.210.000 đồng. Như vậy tiền dùng đánh bạc của Công ty X là 38.700.000 đồng Cáo trạng số 01/CT-VKSTT ngày 05/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh S truy tố bị cáo Quách Thị Q về tội “Tổ chức đánh bạc”, theo điểm a, c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố, phân tích, đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân nhân của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bị cáo Quách Thị Q phạm tội “Tổ chức đánh bạc” theo quy định tại điểm a, c khoản 1 Điều 322 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 322, điểm g khoản 1 Điều 52, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51, Điều 35 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Q hình phạt tiền từ 60.000.000 đồng đến 80.000.000 đồng. Về vật chứng yêu cầu áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, sung quỹ số tiền phạm tội quả tang và thu lợi bất chính là 14.153.500 đồng và tịch thu tiêu hủy 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng gold có sim số 0962.444.xxx, 01 máy tính hiệu Casio đã qua sử dụng, không rõ hiện trạng; tiêu hủy 07 tờ giấy học sinh, loại giấy đôi có ghi số từ 00 đến 99; 03 xấp giấy học sinh được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 41 tờ giấy trắng; 01 xấp giấy lịch được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 19 tờ chưa ghi nội dung; 01 cây viết mực, màu xanh trắng trên viết có chữ H3.Master và 01 cây viết mực, màu đỏ trên viết có ghi chữ EN-GEL.

- Bị cáo Quách Thị Q thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Cáo trạng truy tố, tại lời nói sau cùng xin giảm hình phạt và mong muốn được hưởng sự khoan hồng của pháp luật cho bị cáo được chấp hành hình phạt tiền.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Danh Tùa H2, bà Nguyễn Thị Thanh N, bà Danh Thị B và bà Trần Thị L1 khai có tham gia đánh bạc với bị cáo Q vào ngày 05/8/2019 và ngày 06/8/2019.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Bị cáo Quách Thị Q bị bắt quả tang ngày 06/8/2019, đến ngày 23/9/2023 thì cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T khởi tố vụ án và khởi tố bị can là còn thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện T, tỉnh S; Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh S, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện. Do đó, hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về thủ tục tố tụng: Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông K vắng mặt, nhưng đã có lời khai tại cơ quan điều tra nên việc vắng mặt của họ không cản trở việc xét xử, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự vẫn tiến hành xét xử vụ án.

[3] Về nội dung vụ án: Lời khai của bị cáo Q tại phiên tòa là phù hợp với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và chứng cứ thu được tại hiện trường vụ án xác định vào ngày 05/8/2019, bị cáo Q tổ chức đánh bạc trái phép bằng hình thức bán số đề cho 10 người đánh bạc (mua số đề đài Đồng Tháp, Cà Mau và Hà Nội) trở lên trong cùng một lúc với tổng số tiền đánh bạc trên 5.000.000 đồng. Cụ thể bị cáo đã bán cho người mua số đề với tổng số tiền, hiện vật dùng đánh bạc trong cùng 01 lần trị giá trên 20.000.000 đồng nên hành vi của bị cáo Q đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Tổ chức đánh bạc” theo điểm a, c khoản 1 Điều 322 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 [4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự trị an xã hội mà cụ thể trật tự nếp sống văn minh, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình, công việc cá nhân và hoạt động bình thường của xã hội. Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được việc đánh bạc là trái pháp luật và bị nghiêm cấm nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do đó, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh S đối với bị cáo Q là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội theo pháp luật quy định.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi của mình và có nhân thân tốt, chưa tiền án, tiền sự, đã nộp tiền thu lợi bất chính và có người thân có công nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, đồng thời xét đến nhân thân, tình hình tài sản và khả năng tự cải tạo của bị cáo trong thời gian tạm đình chỉ, thời gian tại ngoại. Vì vậy xét tính nhân đạo của pháp luật, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội mà chỉ cần áp dụng hình phạt kinh tế bằng hình thức xử phạt tiền cũng đủ răn đe và để bị cáo thấy được tính khoan hồng của pháp luật, tự khắc phục sửa chữa sai lầm để trở thành người có ích cho xã hội.

[7] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ quy định b, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền pham tội quả tang, thu lợi bất chính là 14.153.500 đồng, 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng gold và tiêu hủy vật không sử dụng được là sim số 0962.444.xxx, 01 máy tính hiệu Casio đã qua sử dụng không rõ hiện trạng, 07 tờ giấy học sinh loại giấy đôi có ghi số từ 00 đến 99, 03 xấp giấy học sinh được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 41 tờ giấy trắng, 01 xấp giấy lịch được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 19 tờ chưa ghi nội dung, 01 cây viết mực màu xanh trắng trên viết có chữ Hi.Master và 01 cây viết mực màu đỏ trên viết có ghi chữ EN- GEL.

[8] Từ những phân tích trên xét đề nghị của Viện kiểm sát về áp dụng pháp luật, hình phạt tiền có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào a, c khoản 1 Điều 322; điểm g khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Quách Thị Q phạm tội “Tổ chức đánh bạc”.

Xử phạt: bị cáo Quách Thị Q hình phạt tiền với số tiền phạt 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng). Phong tỏa số tiền 100.000.000 đồng (một trăm triệu đồng) trong tài khoản số 760768306xxxx tại Sổ tiết kiệm có kỳ hạn số AD 00024877402 ngày 03/01/2024 tại Ngân hàng N2 - Chi nhánh huyện T, tỉnh S của Quách Thị Q để bảo đảm thi hành án.

2. Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu, nộp ngân sách nhà nước số tiền 14.153.500 đồng và 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu vàng gold của bị cáo Quách Thị Q.

- Tịch thu, tiêu hủy đối với vật chứng: Sim số 0962.444.xxx; máy tính hiệu Casio đã qua sử dụng không rõ hiện trạng; 07 tờ giấy học sinh, loại giấy đôi có ghi số từ 00 đến 99; 03 xấp giấy học sinh được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 41 tờ giấy trắng; 01 xấp giấy lịch được cắt nhỏ có bấm ghim gồm 19 tờ chưa ghi nội dung; 01 cây viết mực màu xanh trắng trên viết có chữ Hi.Master và 01 cây viết mực màu đỏ trên viết có ghi chữ EN-GEL.

Hiện các vật chứng nêu trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, tỉnh S quản lý (theo biên bản giao nhận vật chứng số 06 ngày 05/01/2024, giữa cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện T và Chi cục thi hành án dân sự huyện T – bl 396).

3. Về án phí: Bị cáo Quách Thị Q phải chịu án phí 200.000 đồng.

Bị cáo và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người vắng mặt kể từ ngày nhận bản án hoặc niêm yết bản án tại Ủy ban nhân dân nơi cư trú để yêu cầu Tòa án cấp trên xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

81
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức đánh bạc số 04/2024/HS-ST

Số hiệu:04/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Trị - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;