TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI
BẢN ÁN 266/2022/HS-PT NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC XUẤT CẢNH TRÁI PHÉP
Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở, Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử phúc thẩm, công khai, vụ án hình sự thụ lý 1045/2021/TLPT-HS ngày 15 tháng 11 năm 2021 đối với các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn D, Trương Văn T, Sầm Văn K. Do có kháng cáo của các bị cáo, đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2021/HSST ngày 24 tháng 09 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng.
* Các bị cáo có kháng cáo:
1. Sầm Văn C, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1992 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký Hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 06/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sầm Văn C1 (đã chết) và bà Hoàng Thị R; có vợ: Lục Thị B và 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Tạm giữ: từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện đang tại ngoại; có mặt.
2. Trương Văn D, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2004 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Học sinh; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn N1 và con bà Trương Thị M; vợ, con: Không có; tiền án, tiền sự: Không có; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện đang tại ngoại; có mặt.
3. Trương Văn T, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2002 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn L1 (đã chết) và bà Hoàng Thị N2(đã chết); vợ, con: (tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo khai mới cưới vợ Phùng Thị Giang và có 01 con sinh năm 2022); tiền án, tiền sự: Không có; Tạm giữ: từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021; Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện đang tại ngoại; có mặt.
4. Sầm Văn K, sinh ngày 11 tháng 6 năm 2002 tại huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: Lao động tự do, trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Nùng; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Sầm Văn S1 (bị cáo khai mới chết 2021) và bà Nông Thị L1; vợ, con: Không có; tiền án, tiền sự: Không có; Tạm giữ: từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021; Bị cáo bị áp dụng biện pháp: Cấm đi khỏi nơi cư trú; Hiện đang tại ngoại; có mặt.
* Đại diện hợp pháp của bị cáo Trương Văn D: Ông Trương Văn N1, sinh năm 1976. Trú tại: Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q, tỉnh Cao Bằng; có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và bản án sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Hồi 20 giờ 15 phút ngày 23-4-2021, Tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Trà L2 đang làm nhiệm vụ tại xóm Bản T2, xã Quang H1, huyện Trùng K, tỉnh Cao Bằng phát hiện Trương Văn T, Sầm Văn K mỗi người điều khiển 01 xe mô tô chở 02 người đi từ hướng thị trấn Trà L3, huyện Trùng K đến xã Tổng C, huyện Hà Q có dấu hiệu nghi vấn. Tổ công tác đã ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra, thấy vậy Sầm Văn K điều khiển xe chở 02 công dân đi cùng xe của Trương Văn T chạy thoát, còn Trương Văn T cũng 02 công dân đi xe của Sầm Văn K là Lê Thị Mỹ D, sinh năm 1991 và Hồ Thị Hằng M1, sinh năm 1990 (Cùng trú tại huyện Chư Pưh, tỉnh Gia Lai) bị giữ lại. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng đối với Trương Văn T.
Quá trình điều tra xác định được như sau: Tối ngày 21-4-2021, Sầm Văn C đến mốc 719 thuộc địa phận Xóm Kéo S, xã Tổng C để dắt trâu thuê thì gặp một người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên tuổi, địa chỉ) đặt vấn đề thuê C đón 06 người từ thị trấn Trà L2 đưa đến mốc 719, với tiền công là 3.600.000đ/01 người, khi C đồng ý thì người này cho C số điện thoại của người xuất cảnh trái phép để C chủ động liên lạc. Khoảng 16 giờ ngày 23-4-2021, C liên lạc qua mạng xã hội Wechat thuê Trương Văn D, Trương Văn T và Sầm Văn K (là người cùng xóm với C ) đến thị trấn Trà L2 đón 06 người đưa đến ngã ba xóm Ngườm L4, xã Tổng C để sau đó C sẽ cũng D, T, K đi bộ dẫn người đến mốc 719 giao cho người Trung Quốc. Đến khoảng 19 giờ ngày 23-4-2021, D điều khiển xe mô tô đến thị trấn Trà L2 chở 02 người gồm 01 nam và 01 nữ đến xóm Ngườm L4 giao cho C ; Khoảng 20 giờ cùng ngày, T cùng K điều khiển xe mô tô đến thị trấn Trà L2 chở 04 người gồm 03 nữ và 01 nam đến xóm Ngườm L4, khi T cùng K đi đến địa phận xóm Bản T2, xã Quang H1, huyện Trùng K thì bị Tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Trà L2 ra hiệu lệnh dừng xe để kiểm tra, K cùng 02 công dân đi xe của T chạy thoát, còn T cũng 02 công dân đi xe của K bị giữ lại. Ngoài ra, trước đó trong khoảng tháng 3-2021, khi đi dắt trâu thuê đến mốc 719, Sầm Văn C cũng được một người đàn ông Trung Quốc thuê đón 04 người từ xóm Pài Bá, xã Tổng C đến mốc 719 thuộc địa phận xóm Kéo Sở, xã Tổng C. Khoảng 18 giờ cùng ngày, C thuê Trương Văn D chở 02 người, Trương Văn T và Sầm Văn K mỗi người chở 01 người đến xóm Ngườm L4. Sau đó, C cùng D, T và K đi bộ dẫn 04 người đến mốc 719 giao cho người Trung Quốc và đã xuất cảnh trái phép trót lọt, C được trả 5.200.000 đồng tiền công, C đã đưa cho D, T, K mỗi người 800.000 đồng, bản thân C được hưởng 2.800.000 đồng.
Ngày 30-8-2021, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng ban hành bản Cáo trạng số: 118/CTr-VKSCB(P1) truy tố các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn D, Trương Văn T và Sầm Văn K về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo quy định tại các điểm b, c khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2021/HSST ngày 24 tháng 09 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, đã quyết định:
Tuyên bố các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D phạm tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”.
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57 của Bộ luật Hình sự 2015 đối với 03 bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sâm Văn K; áp dụng thêm điểm o khoản 1 Điều 52 đối với bị cáo Sầm Văn C. Xử phạt: Bị cáo Sầm Văn C: 07 (bảy) năm tù; Bị cáo Trương Văn T: 06 (sáu) năm tù;
Bị cáo Sầm Văn K: 06 (sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt, các bị cáo Trâm, T được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021. K được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021.
Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 15; Điều 38; Điều 57; khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự 2015. Xử phạt: bị cáo Trương Văn D: 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo Trương Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm:
Các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo D xin được hưởng án treo vì đang học và chuẩn bị thi tốt nghiệp cấp 3. Giao nộp Biên lai thể hiện đã nộp tiền thu lợi bất chính: Sầm Văn C nộp 2.800.000 đồng; Trương Văn D, Trương Văn T, Sầm Văn K mỗi bị cáo nộp là 1.000.000 đồng.
Ông Trương Văn N1 (bố D): hiện D đang học năm cuối cấp 3, do không hiểu biết pháp luật nên D đã phạm tội, đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho D và cho được cải tạo tại địa phương.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá tính chất, mức độ, hậu quả hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm và căn cứ kháng cáo của các bị cáo, kết luận: Bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D bị Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép” theo điểm b, c khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật; hình phạt xử phạt Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D với mức hình phạt là thỏa đáng. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ mới, là người dân tộc, hiểu biết pháp luật hạn chế, hoàn cảnh gia đình khó khăn, sống ở biên giới vùng sâu vùng xa, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của 04 bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đơn kháng cáo của các bị cáo trong thời hạn luật định, được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2]. Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, thừa nhận bản án sơ thẩm quy kết là đúng pháp luật, không oan. Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm; phù hợp lời khai của người làm chứng Lê Thị Mỹ D, Hồ Thị Hằng M1; phù hợp biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử phúc thẩm thống nhất với nhận xét và kết luận của Tòa án cấp sơ thẩm như sau: Ngày 21/4/2021, Sầm Văn C được một người Trung Quốc thuê tổ chức cho 06 người xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc với giá 3.600.000đ/01 người. Đến khoảng 16 giờ ngày 23/4/2021, C thuê Trương Văn D, Trương Văn T, Sầm Văn K chở người từ thị trấn Trà L3, huyện Trùng K đến xã Tổng C, huyện Hà Q giao cho C và cùng nhau đưa đến mốc 719 thuộc Xóm Kéo S, xã Tổng C, huyện Hà Q. Khoảng 19 giờ cùng ngày, D điều khiển xe mô tô chở 02 người đi đến xã Tổng C giao cho C , còn T và K chở 04 người đi sau, khi T, K chở 04 người đến xóm Bản T2, xã Quang H1, huyện Trùng K thì bị tổ công tác Đồn Biên phòng cửa khẩu Trà L2 phát hiện, ngăn chặn, K cùng 02 công dân đi cùng xe của T trốn thoát, còn T và 02 công dân đi cùng xe của K bị giữ lại. Ngoài ra, trong tháng 3-2021, Sầm Văn C cũng được người Trung Quốc thuê tổ chức cho 04 người xuất cảnh trái phép, C đã thuê D chở 02 người, T và K mỗi người chở 01 người từ xóm Pài Bá, xã Tổng C, huyện Hà Q đến mốc 719 thuộc địa phận xóm Kéo Sỹ, xã Tổng Cụt giao cho người Trung Quốc. Lần này, C được hưởng lợi 2.800.000 đồng còn D, T và K mỗi người được hưởng lợi 800.000 đồng. Với hành vi nêu trên của các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn D, Trương Văn T, Sầm Văn K đã cấu thành tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”, vi phạm tình tiết định khung hình phạt: “Phạm tội 02 lần trở lên” và “Đối với từ 05 người đến 10 người”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 348 của Bộ luật Hình sự. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng xét xử các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D theo tội danh, điểm, khoản, điều luật nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật.
[3]. Xét kháng cáo của các bị cáo: Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, xâm phạm đến trật tự quản lý hành chính trong lĩnh vực xuất cảnh, nhập cảnh, xâm phạm an ninh biên giới, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh các tội phạm khác. Với động cơ vụ lợi từ việc đón và đưa người đến biên giới, giúp họ xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc để nhận tiền công. Trong vụ án này, các bị cáo phạm tội đồng phạm giản đơn, bị cáo C là người có vai trò chính, xúi giục người chưa thành niên phạm tội theo điểm 0 khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự thuê các bị cáo D, T và K đón đưa người đề xuất cảnh trái phép. Khi quyết định hình phạt, cấp sơ thẩm xe xét nhân thân các bị cáo chưa tiền án, tiền sự; các bị cáo thành khẩn nhận tội nên đã áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; hành vi phạm tội thực hiện ngày 23-4-2021 chưa đạt; bị cáo D là người chưa thành niên được áp dụng Điều 101 của Bộ luật Hình sự, nên giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo là có căn cứ. Tuy nhiên, với tính chất hành vi phạm tội của các bị cáo, cấp phúc thẩm đồng tình cần có hình phạt nghiêm, việc cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian là cần thiết, nhằm mục đích cải tạo giáo dục riêng và phòng ngừa chung. Trên cơ sở hành vi phạm tội, nhân thân, vai trò, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt: Sầm Văn C: 07 (bảy) năm tù, Trương Văn T: 06 (sáu) năm tù, Sầm Văn K: 06 (sáu) năm tù, Trương Văn D: 04 (bốn) năm tù là thỏa đáng. Tại cấp phúc thẩm, các bị cáo thực sự hối hận việc làm của mình; các bị cáo cung cấp Biên lai thể hiện đã nộp tiền thu lợi bất chính: Sầm Văn C nộp 2.800.000đồng; Trương Văn D, Trương Văn T, Sầm Văn K mỗi bị cáo nộp 1.000.000đồng; các bị cáo có đơn được chính quyền đại phương xác nhận gồm C , T, K: hoàn cảnh gia đình khó khăn, con nhỏ, bố mẹ bệnh tật già yếu hoặc mới chết, là người dân tộc thiểu số sống vùng biên giới, hiểu biết pháp luật hạn chế, là lao động chính; D trình bày hiện đang học lớp 12 chuẩn bị thi tốt nghiệp PTTH, hoàn cảnh gia đình khó khăn, là người dân tộc thiểu số sống vùng biên giới, khi phạm tội là người chưa thành niên nên hiểu biết pháp luật hạn chế.
Xét thấy, đây là những tình tiết giảm nhẹ mới, cần áp dụng Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo, tuy nhiên C có vai trò chính nên mức giảm cần hạn chế hơn các bị cáo khác; đối với T, K và D được C thuê nên cần giảm mức thỏa đáng, thể hiện sự công bằng và nhân đạo, nhưng vẫn đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật. Do vậy, kháng cáo của Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K được cấp phúc thẩm chấp nhận; đối với Trương Văn D được chấp nhận giảm hình phạt nhưng không chấp nhận cho hưởng án treo.
[4]. Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội: Xét thấy, các căn cứ và lập luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở, được chấp nhận.
[5]. Án phí phúc thẩm: Các bị cáo kháng cáo được chấp nhận, không phải chịu án phí phúc thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên;
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355, Điều 357 của BLTTHS; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án;
QUYẾT ĐỊNH
1. Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K; Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trương Văn D.
2. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 127/2021/HSST ngày 24 tháng 09 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, cụ thể như sau:
2.1. Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm o khoản 1 Điều 52; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Sầm Văn C: 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021.
2.2. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trương Văn T: 04 (bốn) năm 06(sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021.
2.3. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Sầm Văn K: 04 (bốn) năm 06(sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 29/4/2021.
2.4. Căn cứ điểm b, c khoản 2 Điều 348; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15; Điều 17; Điều 38; Điều 54; Điều 57; Điều 91; Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trương Văn D: 02 (hai) năm 06(sáu) tháng tù, về tội: “Tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép”. Thời hạn tù tính từ ngày đi chấp hành hình phạt.
(Ghi nhận các bị cáo đã nộp cụ thể: Sầm Văn C nộp 2.800.000đồng tại Biên lai thu 0000465 ngày 19/4/2022; Trương Văn D, Trương Văn T và Sầm Văn K mỗi bị cáo nộp 1.000.000 đồng tại các Biên lai thu số 0000260, 0000259, 0000261 ngày 24/9/2021 đều của Cục Thi hành án dân sự tỉnh Cao Bằng).
3. Án phí phúc thẩm: Các bị cáo Sầm Văn C, Trương Văn T, Sầm Văn K, Trương Văn D không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án
Bản án về tội tổ chức cho người khác xuất cảnh trái phép số 266/2022/HS-PT
Số hiệu: | 266/2022/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân cấp cao |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về