Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài số 15/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 15/2022/HS-ST NGÀY 06/05/2022 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI

Ngày 06 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 09/TLST-HS ngày 27 tháng 01 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 4 năm 2022 và thông báo mở lại phiên tòa số: 17/2022/TB- TA ngày 25/4/2022 đối với bị cáo: Nguyễn Thắng L; tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày: 10 tháng 4 năm 1967; Trú tại: Thôn PL, xã KP, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh; Trình độ học vấn: Xóa mù chữ (biết đọc biết viết); Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn K và bà: Dương Thị D (đều đã mất); Vợ: Nguyễn Thị H; Con: có 02 con, (lớn 11 tuổi, nhỏ 8 tuổi); Tiền án/tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 24/11/2011, bị Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xử phạt 12 tháng tù về hành vi Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong bản án; Ngày 09/12/2021, lợi dụng sơ hở của cơ sở giam giữ khi áp giải đi khám sức khỏe, Nguyễn Thắng L đã bỏ trốn. Ngày 10/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi “Trốn khi đang bị áp giải” theo quy định tại Điều 386 Bộ luật hình sự. Ngày 05/4/2022 Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh đã xử phạt bị cáo 06 (sáu) tháng tù giam. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 13/11/2021 đến ngày 06/01/2022 tại nhà tạm giữ Công an thành phố Hà Tĩnh, tỉnh Hà Tĩnh, ngày 07/01/2022 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Hà Tĩnh cho đến nay. Có mặt.

Luật sư bào chữa cho bị cáo:Ông Hồ Thế Ph, Công ty luật TNHH Hoành Sơn HTP, đoàn Luật sư Hà Tĩnh.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

1, Anh: Phạm Văn Q; Sinh năm 1989; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

2, Anh: Nguyễn Quốc T; Sinh năm: 1984; Địa chỉ: Khối phố 1, phường ĐN, thành phố HT, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

3, Anh: Đặng Quốc Ph; Sinh năm: 2000; Địa chỉ: Xóm TT, xã MY, huyện CL, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

4, Anh: Nguyễn Văn L; Sinh năm 1990; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

5, Chị: Nguyễn Thị L; Sinh năm: 1997; Địa chỉ: Thôn ST, xã TS, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

6, Chị: Nguyễn Thị Th; Sinh năm: 1995; Địa chỉ: Thôn Đông Hà 1, xã TL, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

7, Anh: Nguyễn Văn Chiến Th; Sinh năm 1996; Địa chỉ: Thôn ST, xã TS, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

8, Anh: Nguyễn Văn L; Sinh năm: 1988; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

9, Chị: Nguyễn Thị T; Sinh năm: 1993; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

10, Anh: Nguyễn Văn H; Sinh năm: 1990; Địa chỉ: Thôn ST, xã TS, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

11, Chị: Nguyễn Yến Th; Sinh năm: 1993; Địa chỉ: Thôn ST, xã TS, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

12, Chị: Nguyễn Thị H; Sinh năm 1975; Địa chỉ: Thôn PL, xã KP, huyện KA, tỉnh Hà Tĩnh (Có mặt).

13, Anh: Trần Hữu H; Sinh năm: 1982; Địa chỉ: Tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

14, Chị: Nguyễn Thị Như Tr; Sinh năm: 1988; Địa chỉ: Khối phố 1, phường ĐN, thành phố HT, tỉnh Hà Tĩnh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Thắng L là lao động tự do, thường xuyên sang Lào và Thái Lan làm việc, năm 2019, khi đang ở Lào, Nguyễn Thắng L quen biết Phạm Văn An, hai người thường xuyên liên lạc với nhau.

Khoảng đầu tháng 3/2021, do có nhu cầu đi sang Thái Lan lao động, Nguyễn Văn L, sinh năm 1988, trú tại: tổ 11, thị trấn TH, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh cùng 10 người lao động khác gồm: Phạm Văn Q, sinh năm: 1989; Nguyễn Văn L, sinh năm: 1990; Nguyễn Thị T, sinh năm: 1993, đều trú tại tổ 11, thị trấn TH, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh; Nguyễn Thị L, sinh năm: 1997; Nguyễn Văn Chiến Th, sinh năm: 1996; Nguyễn Văn H, sinh năm: 1990; Nguyễn Yến Th, sinh năm: 1993; Nguyễn Thị Khánh L, sinh năm: 1999, đều trú tại: thôn ST, xã TS, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh; Đặng Quốc Ph, sinh năm: 2000, trú tại: thôn TT, xã ML, huyện CL, tỉnh Hà Tĩnh; Nguyễn Thị Lệ H, sinh năm: 2000, trú tại: thôn LT, xã TK, huyện LH, tỉnh Hà Tĩnh đã liên lạc với Phạm Văn A thông qua mạng xã hội Facebook đặt vấn đề với A “Biết ai có thể đưa người sang Thái Lan, giới thiệu giúp”. Phạm Văn A liên lạc với Nguyễn Thắng L, nói “Có người muốn đi sang Thái Lan nhờ L đưa đi”, L đồng ý và bảo “Nếu ai muốn đi thì liên lạc sẽ giúp đưa đi, chi phí khoảng 14.000.000/người”. Phạm Văn A báo lại cho những người lao động biết sang Thái Lan chi phí 17.000.000đ/1 người, hình thức đi từ Việt Nam trốn sang Lào, sau đó từ Lào vượt sông Mê Kông sang Thái Lan, khi nào đi sẽ báo trước. Phạm Văn A hướng dẫn những người này liên lạc với Nguyễn Văn L tập trung thành một nhóm để đi cùng nhau, A gửi số điện thoại của Nguyễn Văn L cho Nguyễn Thắng L để hai bên trực tiếp liên lạc, trao đổi. Theo yêu cầu của Phạm Văn A, một số người đã nộp trước một phần tiền chi phí, cụ thể: Nguyễn Văn L và Nguyễn Thị T chuyển khoản vào tài khoản ngân hàng Thái Lan của Phạm Văn A 23.000 Bạt Thái (khoảng 17.000.000đ); Nguyễn Thị L chuyển khoản 22.000 Bạt Thái (khoảng 16.000.000đ); Nguyễn Văn Chiến Th chuyển khoản cho A vào tài khoản 064100004xxxx Vietcombank số tiền 20.000.000đ (gồm tiền của Nguyễn Văn Chiến Th và Đặng Quốc Ph mỗi người 1.000.000đ, Nguyễn Văn H và Nguyễn Yến Th mỗi người 9.000.000đ).

Sau khi trao đổi với Phạm Văn A, Nguyễn Văn L đã sử dụng mạng xã hội Facebook “Q” liên lạc với Nguyễn Thắng L qua tài khoản Facebook “H” giới thiệu là người quen của Phạm Văn A muốn đi sang Thái Lan lao động. Nguyễn Thắng L nói “Muốn đi thì đón xe vào khu vực cửa khẩu Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, sẽ giới thiệu tiếp đường dây đưa sang Thái Lan, chi phí sang Lào hết 8.000.000đ/ 1 người, còn chi phí sang Thái Lan thì trao đổi trực tiếp với Phạm Văn A”, Nguyễn Văn L đồng ý. Nguyễn Thắng L còn trao đổi với L thông báo cho những người đi cùng, mang theo ít đồ dùng cá nhân và không nhận người già, người ốm yếu, trẻ em vì đi bộ đường rừng vất vả, mất nhiều thời gian, đồng thời gửi số điện thoại của nhà xe chạy tuyến Hà Tĩnh - Kon Tum để L liên lạc đặt chỗ.

Cũng trong khoảng thời gian này, Nguyễn Thị Th, sinh năm 1995, trú tại: thôn Đông Hà 1, xã TL, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh trực tiếp liên lạc với Nguyễn Thắng L qua tài khoản xã hội Facebook “H” nói “Muốn sang Thái Lan và nhờ L giúp”. Nguyễn Thắng L trả lời “Hiện L đang ở Lào, nếu muốn đi thì đón xe vào khu vực cửa khẩu Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum sẽ giới thiệu người dẫn đi, chi phí sang Thái Lan khoảng 16.000.000đ/1 người, khi đi mỗi người cần chuẩn bị khoảng 8.000.000đ tiền mặt để trả các khoản chi phí trên đường đi, khi nào đi sẽ báo lịch cụ thể”, Nguyễn Thị Th đồng ý và rủ thêm Nguyễn Quốc T, sinh năm 1984, trú tại: khối phố 1, phường ĐN, thành phố HT, tỉnh Hà Tĩnh cùng đi, T đồng ý. Ngoài Nguyễn Thị Th và Nguyễn Quốc T còn có 01 người phụ nữ tên L ở huyện CL, tỉnh Hà Tĩnh, liên hệ trực tiếp với Nguyễn Thắng L qua mạng xã hội Facebook xin đi sang Thái Lan. Nguyễn Thắng L hướng dẫn Linh liên hệ với Nguyễn Văn L để đi cùng nhau.

Sau khi thống nhất với Nguyễn Thắng L và Phạm Văn A, chiều ngày 11/3/2021, nhóm của L gồm 11 người tập trung tại ngã 3 TL, huyện TH, tỉnh Hà Tĩnh đón xe khách đi Kon Tum (do người phụ nữ tên L ở huyện CL đã lên xe trước). Khoảng 03h00’ ngày 12/3/2021, đến khu vực cửa khẩu Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum, tiếp tục bắt taxi đến nghỉ tại khách sạn DX chờ người dẫn đi cùng.

Riêng Nguyễn Thị Th và Nguyễn Quốc T, ngày 12/3/2021 đón xe khách đi vào cửa khẩu Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum. Chiều ngày 15/3/2021, Thúy và Toản đến khách sạn DX cùng với nhóm của L tập trung thành một nhóm 14 người. Theo hướng dẫn của Nguyễn Thắng L, mỗi người nộp cho Nguyễn Văn L từ 7.500.000đ - 8.000.000đ, cụ thể: Nguyễn Văn L, Nguyễn Thị T, Nguyễn Thị L, Phạm Văn Q, Nguyễn Thị Th, Nguyễn Văn H, Nguyễn Yến Th, Nguyễn Thị Khánh L, Nguyễn Thị Lệ H mỗi người nộp số tiền 8.000.000đ; Nguyễn Quốc T nộp số tiền 8.500.000đ; Nguyễn Văn Chiến Th, Đặng Quốc Ph mỗi người nộp số tiền 7.500.000đ, để trả chi phí ăn, nghỉ trên đường đi và trả tiền cho các đối tượng dẫn đường, tổng số tiền thu được, Nguyễn Văn L đổi một số tiền Kíp Lào. Do thời gian chờ để đi lâu nên 05 người gồm: Nguyễn Văn H, Nguyễn Yến Th, Nguyễn Thị Khánh L, Nguyễn Thị Lệ H và người phụ nữ tên L ở huyện CL quay về, còn 09 người tiếp tục chờ để đi. Đối với 05 người quay về, sau khi trừ chi phí tiền ăn, tiền thuê khách sạn, Nguyễn Văn L đã trả lại số tiền mà 05 người này đã nộp trước đó. Còn Nguyễn Văn H và Nguyễn Yến Th đã nhờ Nguyễn Văn Chiến Th chuyển khoản cho Phạm Văn A, A đã chuyển trả lại. Khoảng 21h00’ ngày 15/3/2021, đường dây của Nguyễn Thắng L và Phạm Văn A bố trí 03 chiếc xe máy lần lượt chở 09 người lao động từ khách sạn DX đến điểm tập kết gần biên giới Việt Nam - Lào, tiếp tục được hai người đàn ông đón, dẫn đi bộ theo đường rừng, vượt biên trốn sang Lào. Trên đường đi, Nguyễn Văn L trả cho hai người dẫn đường 20.000.000đ và 7.000.000 Kíp Lào (khoảng 14.000.000đ). Khoảng 3h00’ ngày 16/3/2021, người lao động đến Lào, được một chiếc xe ôtô đón, chở về một khách sạn, Nguyễn Văn L trả cho lái xe 6.000.000đ và 12.000.000 Kíp Lào (khoảng 24.000.000đ). Buổi trưa cùng ngày, có một xe ôtô khách đến đón, sau đó tất cả người lao động được chuyển sang một chuyến xe khác chạy thẳng đến Viêng Chăn, Lào. Sáng ngày 17/3/2021, tại bến xe Viêng Chăn, Lào, Nguyễn Thắng L trực tiếp đón 09 người lao động về nghỉ ở khu nhà trọ của mình. Nguyễn Thắng L yêu cầu nộp tiền chi phí còn lại, cụ thể: Đặng Quốc Ph nộp 8.000.000đ, Phạm Văn Q nộp 8.000.000đ, Nguyễn Thị Th nộp 10.000 Bạt (khoảng 7.500.000đ), Nguyễn Quốc T đã chuyển khoản vào tài khoản số 101896xxxx Vietcombank của Nguyễn Thị H (vợ của L) 7.000.000đ. Nguyễn Văn L trả lại 1.700.000 Kíp Lào (khoảng 3.500.000đ) là tiền thừa sau khi trả các khoản chi phí từ Việt Nam sang. Ngoài ra, Phạm Văn A cũng chuyển khoản cho Nguyễn Thắng L số tiền 12.000.000đ thông qua số tài khoản Vietcombank của Nguyễn Thị H (vợ của L). Sau khi thu tiền xong, Nguyễn Thắng L trích tiền hoa hồng mỗi người 2.000.000đ đối với Nguyễn Thị Th và Nguyễn Quốc T và 500.000đ/1 người đối với nhóm 07 người do Phạm Văn A giới thiệu là 3.500.000đ nhưng Phạm Văn A xin lại 500.000đ nên L chỉ lấy 3.000.000đ, tổng số tiền Nguyễn Thắng L thu lợi bất chính là 7.000.000đ. Số tiền còn lại L đưa cho Nguyễn Thị Th, nhờ Th trả chi phí cho các đối tượng dẫn đường từ Lào sang Thái Lan. Chiều tối cùng ngày, đường dây của Nguyễn Thắng L và Phạm Văn A chuẩn bị 01 xe ô tô chở 09 người lao động đến tập kết tại một khu vực bên sông Mê Kông, lên thuyền vượt sông trốn sang Thái Lan. Khi đến Thái Lan, có 01 chiếc xe ô tô chờ sẵn chở 09 người lao động đi tiếp. Khi xe đi được một lúc thì bị lực lượng chức năng Thái Lan phát hiện, bắt giữ. Ngày 06/4/2021, 09 người bị trục xuất về Việt Nam. Trong thời gian tổ chức cho những người này trốn sang Thái Lan, Nguyễn Thắng L đang lao động tại Lào. Ngày 09/10/2021, Nguyễn Thắng L từ Lào về Việt Nam, bị nhiễm bệnh covid19 và cách ly điều trị tại bệnh viện phổi Hà Tĩnh. Ngày 13/11/2021, Nguyễn Thắng L bị cơ quan điều tra bắt giữ.

Tại bản Cáo trạng số: 14/CT-VKS-P1 ngày 27 tháng 01 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh đã truy tố Nguyễn Thắng L về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 2, Điều 349 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt Nguyễn Thắng L mức án từ 06 đến 07 năm tù, tổng hợp với 06 tháng tù tại bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, truy thu ở L 07 triệu đồng, tuyên về án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận về tội danh và hình phạt, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Sau khi phân tích người bào chữa cho bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét đến hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân, điều kiện phạm tội của bị cáo và áp dụng thêm một số tình tiết giảm nhẹ, xử phạt bị cáo mức án dưới khung hình phạt theo quy định của pháp luật.

Tại lời nói sau cùng bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Viện kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng và hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, những lời khai và các chứng cứ khác. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để khẳng định: Vào tháng 3/2021, Nguyễn Thắng L đã tổ chức cho 09 người lao động Hà Tĩnh vào khu vực cửa khẩu Bờ Y, huyện Ngọc Hồi, tỉnh Kon Tum vượt biên sang Lào, từ Lào, tổ chức cho những người này thuê thuyền vượt sông Mê Kông để sang Thái Lan. Sau khi nhập cảnh trái phép vào Thái Lan, 09 người lao động bị lực lượng chức năng Thái Lan bắt giữ, trục xuất về nước. Trong tổng số 09 người lao động trốn sang Thái Lan tìm việc làm có 02 người trực tiếp thuê Nguyễn Thắng L, L được hưởng lợi 4.000.000đ (2.000.000đ/1 người), còn 07 người thông qua Phạm Văn An thì L được hưởng lợi 3.000.000đ. Tổng 09 người L thu lợi bất chính số tiền 7.000.000đ.

[3] Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh truy tố là đúng người, đúng tội, không oan sai. Tại phiên tòa, lời luận tội của Viện kiểm sát đã đánh giá đầy đủ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, các lập luận đối đáp với người bào chữa đều đúng. Đề nghị của Viện kiểm sát về mức hình phạt đối với bị cáo cũng như các vấn đề khác trong vụ án về cơ bản là có cơ sở và phù hợp.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực xuất nhập cảnh và làm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Nhà nước ta. Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh Covid 19 thì hành vi phạm tội của bị cáo đã làm tăng nguy cơ lây lan dịch bệnh, đe dọa đến sự an toàn, ổn định của đời sống nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh.

Bị cáo nhận thức được hành vi tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài là vi phạm pháp luật, bản thân bị cáo cũng đã từng phạm tội và đã bị xét xử nhưng vẫn không chịu lấy đó làm bài học để tu dưỡng bản thân, làm một con người lương thiện, có ích cho gia đình và xã hội mà vì động cơ mục đích vụ lợi, kiếm được tiền trong quá trình thực hiện hành vi nên bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội. Trước đây do cũng đã từng sang Lào, sang Thái Lan nên khi được đặt vấn đề thuê dẫn sang Thái Lan bị cáo đã liên hệ, trao đổi, thống nhất và liên hệ thuê người để đưa người trốn sang Lào, sang Thái Lan theo con đường tiểu ngạch. Vì vậy, bị cáo đã phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài ”. Vào ngày 09/12/2021, lợi dụng sơ hở của cơ sở giam giữ khi áp giải đi khám sức khỏe, Nguyễn Thắng L đã bỏ trốn. Ngày 10/12/2021, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Hà Tĩnh đã ra Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can về hành vi “Trốn khi đang bị áp giải” theo quy định tại Điều 386 Bộ luật hình sự và vào ngày 05/4/2022 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh xử phạt 06 tháng tù giam. Sau khi xét xử, bản án không có kháng cáo, kháng nghị và đã có hiệu lực pháp luật. Vì vậy, cần phải tổng hợp hình phạt và phải xét xử nghiêm minh đối với hành vi phạm tội của bị cáo.

[5] Xét về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo: Bị cáo xuất thân từ gia đình cơ bản, thành khẩn khai báo, gia đình hoàn cảnh khó khăn, trong vụ án này cũng có phần lỗi của những người lao động là đã chủ động đặt vấn đề nhờ bị cáo đưa sang Thái Lan để lao động bất hợp pháp. Vì vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đã tác động xấu tới xã hội, vì vậy để đảm bảo phòng ngừa tội phạm cần phải xử lý nghiêm minh đối với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo tự rèn luyện chính mình, sống, lao động trở thành một con người có ích cho gia đình và xã hội.

[7] Về vật chứng vụ án: Trong quá trình phạm tội bị cáo đã thu lợi bất chính 07 triệu đồng và đã tiêu hết. Vì vậy, cần áp dụng các quy định của pháp luật, truy thu số tiền này từ bị cáo để sung công quỹ Nhà nước.

[8] Những đối tượng liên quan trong vụ án:

Đối với Phạm Văn A: Ngày 06/01/2022, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh đã ra Quyết định khởi tố bị can về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại khoản 2, Điều 349 Bộ luật hình sự, hiện nay Phạm Văn A không có mặt tại địa phương. Ngày 11/01/2022, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định tách vụ án đối với Phạm Văn A để tiếp tục điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn L: là người Phạm Văn A và Nguyễn Thắng L tổ chức trốn sang Thái Lan, là người được L và A nhờ thu tiền của một số lao động đi cùng để thanh toán các khoản chi phí trên đường, tuy nhiên L và A không hứa hẹn, thỏa thuận trả tiền công, L cũng là lao động muốn sang Thái Lan làm việc. Hiện nay Phạm Văn A đang bỏ trốn, chứng cứ xác định vai trò giúp sức của Nguyễn Văn L đối với Phạm Văn A chưa rõ. Vì vậy, Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh tiếp tục, điều tra làm rõ xử lý sau.

Đối với 03 người đàn ông sử dụng xe mô tô chở 09 người lao động đến khu vực biên giới và 02 người đàn ông dẫn đường cắt rừng trốn sang Lào. Do thông tin Nguyễn Thắng L và các công dân cung cấp không đầy đủ nên cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Hà Tĩnh không đủ căn cứ để xác minh.

Đối với 09 người lao động trốn sang Thái Lan, hành vi qua lại biên giới quốc gia, không làm thủ tục xuất nhập cảnh là vi phạm pháp luật. Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hà Tĩnh đã xử phạt vi phạm hành chính trên theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Thị H (vợ của Nguyễn Thắng L), là chủ tài khoản ngânhàng Vietcombank số 101896xxxx, Nguyễn Thắng L sử dụng giao dịch nhận chuyển tiền của các lao động đi Thái Lan. Sau khi mở tài khoản, H cho L sử dụng, không biết L dùng tài khoản để thực hiện hành vi phạm tội. Nên Cơ quan An ninh điều tra không đề cập hình thức xử lý là có căn cứ.

[9] Bị cáophải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.

[10] Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thắng Lphạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”.

[2] Áp dụng điểm c khoản 2, Điều 349, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 56 Bộ luật Hình sự xử phạt:

Bị cáo Nguyễn Thắng L 06 năm 06 tháng tù, tổng hợp hình phạt 06 tháng tù tại bản án số 20/2022/HSST ngày 05/4/2022. Xử buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 07 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 13/11/2021.

[3] Về vật chứng vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự, áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự.

Truy thu sung công quỹ Nhà nước đối với bị cáo Nguyễn Thắng L 07 (bảy) triệu đồng tiền do phạm tội mà có.

[4] Về án phí: Căn cứ Điều 135, 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[5] Quyền kháng cáo bản án: Bị cáo, những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đối với những người vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

18
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài số 15/2022/HS-ST

Số hiệu:15/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;