TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HN
BẢN ÁN 111/2021/HS-ST NGÀY 12/04/2021 VỀ TỘI TỔ CHỨC CHO NGƯỜI KHÁC TRỐN ĐI NƯỚC NGOÀI
Trong ngày 12 tháng 04 năm 2021, tại trụ sở Tòa án, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/HSST ngày 05/02/2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐXXST - HS ngày 28 tháng 02 năm 2021 đối với:
Bị cáo Nguyễn Thị Hương Ch, sinh năm: 1985; Giới tính: Nữ.
Nơi ĐKHKTT: Xóm máy 4, xã HB, thành phố HB, tỉnh HB (Tạm trú tại: Ki ốt số 3 CT1, tập thể Học viện Quân Y, đường Lê Hữu Tr, tổ 9 phường PL, quận HĐ, TP HN);
Nghề nghiệp: Tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Văn hóa : 12/12; Con ông: Nguyễn Duy L- sinh năm 1964; Con bà: Sa Thị Ng - sinh năm 1964; có chồng: Nguyễn Văn H3- sinh năm 1985; Con: 01 con sinh này 15/10/2020.
Tiền án, tiền sự: Không; Danh chỉ bản số 289 ngày 08/10/2020 PA09 CAHN. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/10/2020.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Phạm Trung K - Văn phòng Luật sư KL và cộng sự - Đoàn Luật sư TP HN. có mặt
Ngươi có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
1./ Anh Bùi Anh T1, sinh năm 1985;
HKTT: xóm Mỏ, thị trấn LS, huyện LS tỉnh HB (hiên trú tại xóm T, xã TL, huyện ĐB, tỉnh HB). Có mặt
2./ Chị Lương Bích Ng, sinh năm 1983; (vợ anh Bùi Anh T1) Trú tại: xóm T, xã TL, huyện ĐB, tỉnh HB Địa chỉ khác: xóm M, thị trấn LS, huyện LS, tỉnh HB. Có mặt
3./ Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1972 Trú tại: Xóm X, xã HB, thành phố HB, tỉnh HB. Có mặt
4./ Anh Nguyễn Xuân H3, sinh năm 1986;
Trú tại: xóm 4, thôn Đoài, xã Th.N, huyện Th.Th, tỉnh TB. (hiện trú tại: Tổ dân phố số 2 MTT, phường MTr, quận NTL, TP HN). Vắng mặt.
5./ Chị Nguyễn Thị Kim Ph, sinh năm 1992 Trú tại: tổ 7 Phường PK, thành phố TB, tỉnh TB. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 12/05/2019, Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an, tiếp nhận 04 công dân Việt Nam bị phía Hàn Quốc trục xuất về nước gồm: Bùi Anh T1; Lương Bích Ng; Nguyễn Văn V; Nguyễn Xuân H3.
Ngày 27/09/2019, Cục Quản lý xuất nhập cảnh - Bộ Công an, chuyển toàn bộ hồ sơ vụ việc đến Cơ quan An ninh điều tra (PA09) - Công an TP HN, thụ lý điều tra theo quy định của pháp luật.
Tại Cơ quan An ninh điều tra - Công an TP HN các đối tượng khai:
Đầu tháng 04/2019, do có nhu cầu đi lao động tại Hàn Quốc, nên Nguyễn Văn V, Bùi Anh T1 và Lương Bích Ng đặt vấn đề với Nguyễn Thị Hương Ch nhờ làm thủ tục để được đi xuất khẩu lao động tại Hàn Quốc.
Nguyễn Thị Hương Ch đã hướng dẫn Nguyễn Văn V, Bùi Anh T1 và Lương Bích Ng làm hồ sơ xin cấp Visa, còn Nguyễn Xuân H3 tự làm hồ sơ, nộp tại Đại sứ quán Hàn Quốc tại Việt Nam, tuy nhiên cả 04 người trên đều bị Đại sứ quán Hàn Quốc từ chối cấp Visa. Do vẫn muốn sang Hàn Quốc lao động nên V, T1, Ngọc và Hội, tiếp tục nhờ Chình tìm cách đưa sang Hàn Quốc theo diện du lịch, sau đó trốn ở lại lao động bất hợp pháp.
Nguyễn Thị Hương Ch đã tìm hiểu thông tin trên mạng, và biết được nếu đi du lịch đến đảo Jeju, Hàn Quốc, thì không cần Visa, chỉ cần có người mang quốc tịch Hàn Quốc, bảo lãnh là được phép nhập cảnh.
Nguyễn Thị Hương Ch đã liên hệ với Vũ Văn Hoàng Anh là người gốc Việt Nam, đã nhập quốc tịch Hàn Quốc, lấy tên Jin Myung Soo, có địa chỉ cư trú tại Phòng 501 Lee Hoi - dong, Sewon jutaek, 19-1 Ohdo - gil, thành phố Cheju tỉnh tự trị Cheju, để nhờ Hoàng Anh bảo lãnh cho Hội, V, T1 Anh và Ngọc nhập cảnh vào Hàn Quốc. Hoàng Anh đồng ý và yêu cầu 04 người trên phải đặt cọc tiền chống trốn 200 triệu đồng/01 người, nếu trốn ở lại bị phát hiện thì Hoàng Anh sẽ dùng số tiền này để nộp phạt cho Cơ quan chức năng Hàn Quốc, ngoài ra tiền công bảo lãnh Hoàng Anh được hưởng là 1.000USD/01 lần nhập cảnh. Chình đồng ý và cam kết với Hoàng Anh sẽ sử dụng số tiền trong 02 tài khoản mở tại ngân hàng Suhyup, Hàn Quốc để trả cho Hoàng Anh. Sau đó Chình tìm hiểu trên trang Web “việc tìm người, người tìm việc” để liên hệ và làm quen với một người phụ nữ Việt Nam (không rõ thông tin cá nhân), đang sinh sống tại đảo Jeju, Hàn Quốc, trao đổi để tìm việc làm cho 04 công dân Việt Nam, sau khi đã được nhập cảnh vào đảo JeJu, Hàn Quốc. Chình được người phụ nữ này cam kết tìm việc làm cho 04 công dân Việt Nam với mức lương từ 30 triệu đến 35 triệu VNĐ/tháng, công việc là làm nông nghiệp và chế biến hải sản. Chình đã yêu cầu Nguyễn Văn V, Bùi Anh T1 và Lương Bích Ng, mỗi người đặt cọc cho Chình 200 triệu đồng (không bao gồm tiền vé máy bay), cả 04 người đồng ý. Chình tạm thu của Nguyễn Văn V 83 triệu đồng, vợ chồng Bùi Anh T1, Lương Bích Ng 40 triệu đồng, Nguyễn Xuân H3 180 triệu đồng. Số tiền còn lại sau khi được nhập cảnh vào Hàn Quốc, các đối tượng sẽ thanh toán nốt cho Chình.
Để đối phó với các cơ quan chức năng Hàn Quốc và Việt Nam, Chình đã đặt vé máy bay khứ hồi; lập chương trình du lịch tại đảo JeJu, Hàn Quốc; lập bảng câu hỏi và trả lời; lấy thông tin cá nhân của Hoàng Anh đưa cho Hội, V, T1 và Ngọc, trả lời khi nhập cảnh bị Cơ quan chức năng Hàn Quốc hỏi.
Chình còn nhờ Nguyễn Thị Kim Ph - sinh năm 1992, trú tại: Tổ 7 phường PK, thành phố TB, tỉnh TB (bạn gái của Vũ Văn Hoàng Anh), đi cùng các đối tượng trên sang Hàn Quốc để hướng dẫn về thủ tục khi nhập cảnh.
Do không đặt được vé bay cùng một ngày, nên Bùi Anh T1 và Lương Bích Ng, bay sang Hàn Quốc vào ngày 08/05/2019; Nguyễn Văn V, Nguyễn Xuân H3 và Nguyễn Thị Kim Ph bay ngày 09/05/2019.
Ngày 11/05/2019, V, T1, Ngọc và Hội, làm thủ tục khai báo để nhập cảnh vào đảo JeJu, Hàn Quốc, nhưng bị từ chối và bị trục xuất về Việt Nam ngày 12/05/2019, lý do trục xuất:
“ Những người trên nói rằng gặp người đón tiếp là Jin Myung Soo (là quan hệ họ hàng; là em của bố; là chồng...), nhưng lại nói rằng không quen nhau; mục đích đi du lịch đảo JeJu nhưng đi thăm địa điểm nào không biết; không có kế hoạch du lịch cụ thể. Từ đó thấy rằng lời trình bày về mục đích nhập cảnh không đáng tin cậy ”. Quyết định: Không cho phép nhập cảnh.
Vật chứng thu giữ của Nguyễn Thị Hương Ch 01 điện thoại hiệu Samsung, sử dụng số thuê bao 0335683869; thu giữ 05 quyển hộ chiếu mang tên Nguyễn Văn V, Nguyễn Xuân H3, Nguyễn Thị Kim Ph, Bùi Anh T1 và Lương Bích Ng.
Tại Bản cáo trạng số: 04/CT-VKSNDTC-P1 ngày 17/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân TP HN truy tố các bị cáo Nguyễn Thị Hương Ch tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại khoản 1, Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại phiên tòa hôm nay:
Bị cáo Nguyễn Thị Hương Ch khai nhận phù hợp các lời khai tại cơ quan điều tra, lời khai nhân chứng, người liên quan và các tài liệu có trong hồ sơ.
Luật sư bào chữa cho bị cáo: Không có ý kiến gì về tội danh và điều luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có động cơ vụ lợi chỉ do đi lại Hàn Quốc nhiều lần nên giúp đỡ cho người quen thân, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên không cần thiết phải phạt tù giam, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ mới sinh con nhỏ đến nay được vài tháng, gia đình cuộc sống khó khăn, phạm tội lần đầu đề nghị giảm cho bị cáo hưởng án treo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân TP HN duy trì công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo bản cáo trạng và có quan điểm: lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ đủ cơ sở kết luận các bị cáo phạm tội như cáo trạng đã truy tố.
Bị cáo khai báo thành khẩn, có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, đã khắc phục hậu quả vụ án, đang nuôi con nhỏ.
Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng các tình tiết giảm nhẹ thành khẩn khai báo ăn năn hối cải điểm b,s khoản 1 và khoản 2 điều 51; khoản 1 điều 349 Bộ luật Hình sự 2015 xử phạt: bị cáo từ 12 đến 18 tháng tù.
Tịch thu xung công các điện thoại của bị cáo; trả cho người liên quan 05 cuốn hộ chiếu.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về tính hợp pháp của hành vi quyết định tố tụng:
Các hành vi quyết định tố tụng của Điều tra viên - Cơ quan cảnh sát Điều tra và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên toà, bị cáo không khiếu nại về hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với lời khai của các nhân chứng; vật chứng, các tài liệu có trong hồ sơ và kết quả tranh tụng cở đủ cơ sở kết luận:
Nắm bắt được nhu cầu của một số cá nhân muốn sang lao động, kiếm việc làm tại hàn Quốc mà không thông qua con đường chính ngạch; đồng thời biết được quy định của phía Hàn Quốc mở rộng du lịch qua địa bàn khu tự trị đảo Jeju sẽ không cần Visa nên bị cáo đã móc nối với một số người Hàn Quốc gốc Việt đang sinh sống tại đảo Jeju để bảo lãnh và tìm việc cho những người có nhu cầu sang du lịch và ở lại trái phép tìm việc làm.
Ngày 08,09/5/2019 Nguyễn Thị Hương Ch, đã có hành vi tổ chức đưa Nguyễn Văn V, Bùi Anh T1, Lương Bích Ng và Nguyễn Xuân H3, đi từ Việt Nam đến du lịch tại đảo JuJe, Hàn Quốc, mục đích để trốn ở lại lao động bất hợp pháp tại Hàn Quốc, bị Cơ quan chức năng Hàn Quốc từ chối nhập cảnh, trục xuất về Việt Nam, ngày 12/05/2019.
Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo đều hiểu rằng việc tổ chưc cho người khác trốn đi nước ngoài thông qua con đường du lịch chẳng những đe dọa an ninh chính trị, an toàn xã hội của các quốc gia trên thế giới mà còn đe dọa trực tiếp đến tính mạng sức khỏe của chính người được đưa đi; đồng thời làm xấu hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế, làm ảnh hưởng đến sự hợp tác trong lao động, giáo dục, du học, thăm thân, buôn bán thương mại giữa Việt Nam với Hàn Quốc. Gần đây loại tội phạm về ma túy, buôn lậu, buôn bán nội tạng, khủng bố...có chiều hướng phát triển với quy mô đa quốc gia, đa vùng lãnh thổ mà song song với các loại tội phạm này là tôi phạm buôn bán người, đưa người trốn đi nước ngoài phát triển xấu, đòi hỏi các quốc gia tăng cường chặt chẽ giám sát việc xuất nhập cảnh giữa biên giới các quốc gia và đòi hỏi phải xử lý ngiêm đối với các loại tội phạm này. Lần này, cần xử phạt bị cáo một mức án phù hợp cách ly khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng giáo dục các bị cáo và phòng ngừa chung.
Có đủ căn cứ kết luận: bị cáo đã phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” quy định tại khoản 1, Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015.
[3] Nhân thân của bị cáo: chưa có tiền án tiền sự, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bản thân là người dân tộc Mường hoàn cảnh khó khăn nên điều kiện tiếp xúc và nhận thức pháp luật hạn chế, bị cáo vừa sinh con nhỏ được mấy tháng, đã khắc phục toàn bộ hậu quả vụa án nên được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các điểm b, s, khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự 2015 Trong vụ án này xét thấy bị cáo do thường xuyên đi lại Hàn Quốc nên khi có người đặt vấn đề nhờ vả muốn đi Hàn Quốc Lao động thì bị cáo đã tìm hiểu và nhận lời. Các tài liệu trong hồ sơ cho thấy những người bị cáo giúp để tổ chức đi Hà Quốc đều là người thân trong gia đình hoặc quen thân, bị cáo không có tư lợi trong việc đưa người đi nước ngoài và khi những người này chưa kịp nhập cảnh vào Hàn Quốc đã bị lực lượng chức năng của Hàn Quốc phát hiện trục xuất ngày, vụ án được ngăn chặn kịp thời chưa gây hậu quả, có địa chỉ cư trú rõ ràng. Với các tình tiết gỉảm nhẹ của bị cáo, cũng như xem xét tính chất mức độ hành vi phạm tội như phân tích trên, Hội đồng xét xử thấy bị cáo phạm tội có tính chất cơ hội nên xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo cũng cho bị cáo có điều keienj chăm sóc con mới sinh.
[4] Đối với người liên quan trong vụ án:
Đối tượng Jin Myung Soo (Vũ Văn Hoàng Anh), người đứng ra bảo lãnh cho Nguyễn Văn V, Bùi Anh T1, Lương Bích Ng và Nguyễn Xuân H3, nhập cảnh vào Hàn Quốc; đối tượng Nguyễn Thị Kim Ph người được Nguyễn Thị Hương Ch nhờ đi cùng đưa V, Hội, Ngọc và T1 đến đảo JeJu, Hàn Quốc, nhưng đều khai không biết mục đích các đối tượng trên sẽ trốn ở lại để lao động bất hợp pháp, nên Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát không xử lý nên Tòa không xét.
Đối tượng phụ nữ người Việt Nam sống tại đảo JeJu, Hàn Quốc, nhận tìm việc làm cho V, T1, Ngọc và Hội, sau khi nhập cảnh vào Hàn Quốc, Chình khai quen biết đối tượng này trên mạng, không biết thông tin cá nhân nên không có căn cứ để điều tra làm rõ.
[5] Xử lý vật chứng: Các vật chứng của vụ án mà Cơ quan điều tra thu giữ đã chuyển sang cơ quan Cục Thi hành án dân sự TP HN ngày 23/12/2020 và ngày 25/01/2021:
Các điện thoại của bị cáo dùng vào việc liên lạc phạm tội cho tịch thu xung công quỹ nhà nước.
Trả cho các người liên quan hộ chiếu cá nhân.
[6] Hình phạt bổ sung: Bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.
Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
I/ Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Hương Ch phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” II. Áp dụng:
- Điều 106; 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự
- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí.
- Khoản 1, Điều 349; Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47, Điều 50; điểm b,s, khoản 1 khoản 2 Điều 51; điều 65 Bộ luật hình sự năm 2015;
Xử phạt: Nguyễn Thị Hương Ch 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo; thời hạn thử thách 24 (hai bốn) tháng kể từ ngày tuyên án 12/04/2021.
Giao bị cáo Nguyễn Thị Hương Ch cho UBND xã HB, thành phố HB, tỉnh HB giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại điều 92 của Luật thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
III. Xử lý vật chứng: Các vật chứng Cơ quan điều tra thu giữ đã chuyển sang cơ quan Cục Thi hành án dân sự TP HN ngày 23/12/2020 và ngày 25/01/2021:
- Tịch thu xung công quỹ Nhà Nước:
- 01 điện thoại di động, nhãn hiệu Samsung màu đen đã qua sử dụng, có số imei1: 359116087146214; Imei2: 359117087146212.
- Trả cho những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
+ Chị Lương Bích Ng 01 (một) Hộ chiếu số C6986938 cấp cho Lương Bích Ng ngày 25/03/2019
+ Chị Nguyễn Thị Kim Ph 01 (một) Hộ chiếu số C6323498 cấp cho Nguyễn Thị Kim Ph ngày 15/11/2018
+ Anh Nguyễn Văn V 01 (một) Hộ chiếu số B4090088 cấp cho Nguyễn Văn V ngày 26/05/2010
+ Anh Bùi Anh T1 01 hộ chiếu số C6986937 cấp cho anh Bùi Anh T1 ngày 25/03/2019
+ Anh Nguyễn Xuân H3 01 (một) Hộ chiếu số C6456108 cấp cho Nguyễn Xuân H3 ngày 17/12/2018
IV. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn) án phí hình sự sơ thẩm.
V. Về quyền kháng cáo:
- Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết
Bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài số 111/2021/HS-ST
Số hiệu: | 111/2021/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 12/04/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về