TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 43/2022/HS-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý Số 36/2022/TLPT-HS, ngày 16/02/2022 đối với các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P do kháng cáo của các bị cáo và bị hại đối với bản án hình sự sơ thẩm số số 01/2022/HSST ngày 05/01/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
- Bị cáo kháng cáo:
1. Nguyễn Quốc H, sinh năm 1993 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Đà Lâm, xã Đ, Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: Lớp 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành L, sinh năm 1951 và bà V Thị T, sinh năm 1952; vợ Nguyễn Thị Thùy D, sinh năm 1996 và có 02 người con sinh năm 2017 và 2019; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2021 đến ngày 06/8/2021 được thay thế biện pháp ngăn chặn Cấm đi khỏi nơi cư trú, đến ngày 08/10/2021 tiếp tục bị bắt tạm giam, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng (có mặt).
2. Trần Đình P (tên gọi khác: Cu em), sinh năm 2001 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn Tân Hạ, xã Đ, Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm thuê; trình độ học vấn: Lớp 7/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Như H, sinh năm 1959 và bà Huỳnh Thị Ngọc T, sinh năm 1976; gia đình có 02 anh em, lớn nhất là bị cáo, nhỏ nhất sinh năm 2001; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 12/5/2021, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lâm Đồng (có mặt).
- Bị hại kháng cáo: Ông Phạm Trung S, sinh năm 1974; nơi cư trú: Thôn Đà Thuận, xã Đà Loan, Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Võ Thanh P đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, không có nghề nghiệp ổn định. Quá trình sinh sống tại địa phương P biết được ông Phạm Trung S ở nhà Số 34 Đà Thuận, xã Đà Loan, Huyện Đ có để kim loại vàng pha lẫn tạp chất đất cát (thường gọi là sái) ở kho gần nhà P nên nảy sinh ý định trộm cắp vàng của ông S đem bán lấy tiền tiêu sài. Lợi dụng đêm tối vắng người P đã thực hiện hành vi đột nhập lấy trộm tài sản của ông S, cụ thể:
Lần thứ nhất: Khoảng 19 giờ 30 phút ngày 24/02/2021 P trèo qua tường rào vào khu vực nhà kho của anh S dùng thanh kim loại (khóa 8) đã chuẩn bị sẵn để cạy mở đinh vít vách nhà kho đột nhập vào bên trong lấy trộm được khối lượng sái vàng khoảng 30kg bỏ vào bao tải đem ra ngoài lề đường phía trước nhà ông S. Lúc này P gọi điện thoại rủ Nguyễn Quốc H đến để cùng P đưa sái vàng đi chế tác thành vàng thành phẩm thì H đồng ý. H điều khiển xe máy hiệu Honda Air Blade màu trắng xám biển kiểm soát 49E1-360.69 đến gặp P đang đứng đợi bên lề đường rồi chở P cùng với số sái vàng lấy trộm được đến khu vực chòi rẫy của H ở thôn Đà G’Riềng - Đà Loan để dùng thủy ngân cô sái vàng thành vàng thô. Sau khi sơ chế được vàng thành phẩm, P và H cùng thống nhất gọi cho Trần Đình P, nói P thuê xe đến đón đi chơi rồi cùng nhau đem vàng đến bán tại tiệm vàng Tài Khôi ở chợ Đà Loan - Đ. Khoảng 23 giờ 30 phút cùng ngày P cùng H đem vàng đi bán, P được giao cầm số vàng thành phẩm đóng vai trò giả là người chủ có vàng để tránh sự nghi ngờ về nguồn gốc tài sản để thuận lợi cho việc tiêu thụ, H và P đã bán cho anh Nguyễn Mạnh H1 và Nguyễn Mạnh V tại tiệm vàng Tài Khôi được số tiền là 84.090.000đ. P nhận tiền xong đưa cho P, P cầm số tiền trên chia cho H 20.000.000đ và P 1.000.000đ còn lại P giữ rồi cả ba cùng đi chơi, ăn uống với nhau.
Lần thứ hai: Khoảng 19 giờ 30 Phút ngày 05/3/2021 P đi bộ một mình theo lối cũ trèo qua tường rào đột nhập vào nhà kho của ông S lấy trộm được khối lượng sái vàng khoảng 30kg bỏ vào bao tải đem ra ngoài lề đường phía trước nhà ông S và gọi điện thoại cho H đến cùng chở số sái vàng lấy trộm được đem đến khu vực chòi rẫy của H dùng thủy ngân cô sái vàng thành vàng thô. Tại đây, H gọi điện thoại cho P nói thuê xe đi chơi, P trả lời không có xe, H vẫn nói P ra mục đích để cùng đi bán vàng với H. Khoảng 23 giờ cùng ngày, H điều khiển xe máy biển kiểm soát 49E1-360.69 chở P đi đến đoạn đường gần Trạm y tế xã Đà Loan đứng đợi, khi gặp P, P lấy xe máy của P đi tách ra để H và P đem vàng đến tiệm Tài Khôi bán được 119.620.000đ. Sau khi bán được vàng P cầm tiền ra đưa lại cho P, P chia cho H 20.000.000đ và P 1.000.000đ.
Đối với hành vi của Trần Đình P 02 lần cùng P và H đem vàng đi bán, là người trực tiếp bán vàng cho tiệm vàng Tài Khôi. P có nghi ngờ về số vàng này do trộm cắp mà có. Tuy nhiên, việc trộm cắp vàng P không biết nhưng vì ham lợi nên P đã thực hiện hành vi phạm tội.
Tại Kết luận định giá tài sản số 2850/KL-HĐĐGTS ngày 23/11/2021 của Hội đồng định giá tỉnh Lâm Đồng xác định giá trị tài sản là 206.828.442đ.
Vật chứng của vụ án: 01 ĐTDĐ Nokia màu đen, 01 ĐTDĐ Black Bery, 01 xe máy Honda Air Blade màu đen, 01 giấy đăng ký xe mang tên Thạch Ngọc Quỳnh, 01 ĐTDĐ Samsung A10 màu xanh, 01ĐTDĐ Iphone 6 màu trắng, 01 xe máy Honda Air Blade màu trắng xám, 01 ĐTDĐ Samsung J6 màu xanh;
Nguyễn Quốc H đã tự nguyện nộp lại số tiền 40.000.000đ. Bị cáo Trần Đình P tự nguyện nộp lại số tiền 2.000.000đ.
Cơ quan điều tra Công an Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng lập biên bản cHển giao cho Chi cục thi hành án dân sự Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng chờ xử lý.
Đối với số lượng vàng các bị cáo đã bán tại tiệm vàng Tài Khôi, qua xác minh kiểm tra xác định trọng lượng trị giá dựa trên hóa đơn mua hàng còn lưu giữ tại cửa hàng, số vàng thực tế đã chế tác thành phẩm không còn nguyên tình trạng ban đầu nên không thu giữ được.
Trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Trung S yêu cầu các bị cáo Võ Thanh P, Nguyễn Quốc H, Trần Đình P bồi thường số tiền 206.828.442đ.
Cáo trạng số 132A/CT-VKS ngày 01 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố các bị cáo Võ Thanh P, Nguyễn Quốc H về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015; bị cáo Trần Đình P về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 05/01/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xử:
Tuyên bố các bị cáo Võ Thanh P, Nguyễn Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”, bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; Điều 17; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Võ Thanh P 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/3/2021.
- Áp dụng điểm a khoản 3 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc H 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/10/2021, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/3/2021 đến ngày 06/8/2021 vào thời gian chấp hành án.
- Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 323; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt bị cáo Trần Đình P 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2021.
Ngoài ra bản án còn giải quyết trách nhiệm dân sự, tuyên án phí và quyền kháng cáo.
Ngày 06/01/2022 bị cáo Trần Đình P kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 08/01/2022 bị cáo Nguyễn Quốc H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 13/02/2022 bị hại Phạm Trung S kháng cáo xin cho bị cáo P được hưởng án treo.
Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P tự nguyện rút kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng căn cứ Điều 348; điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự; đề nghị đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P; không chấp nhận kháng cáo của bị hại Phạm Trung S, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng:
Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P tự nguyện rút kháng cáo nên căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo.
Bị hại Phạm Trung S vắng mặt tại phiên toà, việc vắng mặt bị hại không ảnh hưởng đến việc xét xử, căn cứ Điều 292 của Bộ luật Tố tụng hình sự để tiến hành xét xử vụ án theo thủ tục chung.
[2] Xét đơn kháng cáo của bị hại Phạm Trung S gửi đến Toà án trong hạn luật định nên thời hạn kháng cáo của bị hại là hợp lệ, nội dung kháng cáo của bị hại xin giảm hình phạt và xin cho bị cáo P được hưởng án treo.
[3] Võ Thanh P đã có tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, không có nghề nghiệp ổn định. Quá trình sinh sống tại địa phương P biết được ông Phạm Trung S ở nhà Số 34 Đà Thuận, xã Đà Loan, Huyện Đ có để kim loại vàng pha lẫn tạp chất đất cát (thường gọi là sái) ở kho gần nhà P nên nảy sinh ý định trộm cắp vàng của ông S đem bán lấy tiền tiêu. Lợi dụng đêm tối vắng người P đã thực hiện hành vi đột nhập lấy trộm tài sản của ông S theo đúng như Cáo trạng số 132A/CT-VKS ngày 01 tháng 12 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã truy tố.
Tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm các bị cáo thành khẩn khai báo, thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án hình sự sơ thẩm của Toà án nhân dân Huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng đã xét xử. Tội phạm và hành vi thực hiện tội phạm của bị cáo đã được bản án sơ thẩm phân tích, đánh giá và tuyên bố các bị cáo Võ Thanh P, Nguyễn Quốc H phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm a khoản 3 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015; tuyên bố bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo điểm c khoản 2 Điều 323 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.
[4] Xét kháng cáo của bị hại Phạm Trung S đề nghị HĐXX cho bị cáo Trần Đình P được hưởng án treo: Hội đồng xét xử phúc thẩm (sau đây viết là HĐXX) thấy rằng khi quyết định hình phạt bản án sơ thẩm đã áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 đối với các bị cáo, tuy nhiên bản án sơ thẩm không áp dụng đối với các bị cáo H, P tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khắc phục hậu quả tại điểm b khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và không áp dụng thêm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự phạm tội nhiều lần đối với các bị cáo tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 là thiếu sót. Tuy nhiên, xem xét tất cả các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo H và bị cáo P thì mức án bản án sơ thẩm quyết định định đối với các cáo là phù hợp đúng với vai trò đồng phạm, giúp sức tích cực của các bị cáo nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong đấu tranh phòng chống tội phạm hiện nay. Giá trị tài sản các bị cáo chiếm đoạt có giá trị lớn, bị cáo P thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức và thực hiện hành vi phạm tội nhiều lần. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự trị an tại địa phương, cộng đồng dân cư. Bản án sơ thẩm đã đánh giá đúng tính chất của vụ án áp dụng Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015 cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là cần thiết, đúng quy định của pháp luật đồng thời phân hoá vai trò của từng bị cáo, xử phạt bị cáo P 03 năm tù là có căn cứ, tương xứng với mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo. Tai phiên toà phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của bị hại, HĐXX xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ nên không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm.
[5] Về án phí: Các bị cáo, bị hại không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo xin hưởng án treo đối với bị cáo Trần Đình P của bị hại Phạm Trung S, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 05/01/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Đ.
Tuyên bố bị cáo Trần Đình P phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 323; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
Xử phạt: Bị cáo Trần Đình P 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 12/5/2021.
2. Căn cứ Điều 348 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P, phần quyết định hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 01/2022/HSST ngày 05/01/2022 của Tòa án nhân dân Huyện Đ đối với các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đình chỉ xét xử phúc thẩm (ngày 25/4/2022).
3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Các bị cáo Nguyễn Quốc H, Trần Đình P, bị hại Phạm Trung S không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, hết thời hạn kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có số 43/2022/HS-ST
Số hiệu: | 43/2022/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 25/04/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về