TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ
BẢN ÁN 20/2024/HS-PT NGÀY 17/04/2024 VỀ TỘI TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ
Trong các ngày 12/4/2024 và ngày 17/ 4/2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ đưa ra xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 140/2023/TLPT- HS ngày 29 tháng 12 năm 2023 do có kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ đối với Bản án hình sơ thẩm số 65/2023/HSST ngày 22 tháng 11 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện T S, tỉnh Phú Thọ đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: LÊ XUÂN T. Giới tính: Nam;Tên gọi khác: Không; Sinh ngày:
10/3/2001 tại thành phố T H, tỉnh Thanh Hóa;Nơi ĐKNKTT, Chỗ ở hiện nay: khu L Đ, thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Kinh;Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Lê Xuân T, sinh năm 1973; Mẹ đẻ: Mai Thị H, sinh năm 1974; Hiện bố, mẹ đang thường trú tại khu L Đ, thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ; Vợ, Con: Chưa có.
- Tiền án; Tiền sự: không.
Bị cáo Lê Xuân T không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ.
2. Họ và tên: BÙI CAO Q. Giới tính: Nam;Tên gọi khác: Không; Sinh ngày: 10/8/1990 tại L T, Phú Thọ; Nơi ĐKNKTT, Chỗ ở hiện nay: khu X, xã V L, huyện L T, tỉnh Phú Thọ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Bùi Văn P, sinh năm 1959; Mẹ đẻ: Nguyễn Thị T, sinh năm 1962; Vợ: Triệu Thị Vân A, sinh năm 1998; Con: 01 con sinh năm 2019;Hiện bố, mẹ, vợ, con hiện đang thường trú tại khu 11, xã V L, huyện L T, tỉnh Phú Thọ.
- Tiền án, Tiền sự: không.
Bị cáo Bùi Cao Q không bị tạm giữ, tạm giam. Hiện bị cáo đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã V L, huyện L T, tỉnh Phú Thọ. (Các bị cáo đều có mặt tại phiên tòa).
* Bị hại: Cửa hàng điện thoại di động C Địa chỉ: Số X, Đại Lộ H V, phường N T, Tp V T, tỉnh Phú Thọ. Người quản lý cửa hàng C: Ông Nguyễn Việt Đ.
Địa chỉ: Số X, Đại Lộ H V, phường N T, Tp V T, tỉnh Phú Thọ.
- Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:
1. Công ty Cổ phần dịch vụ GHN Địa chỉ: Số X, X V N T, phường Y, quận B T, TP Hồ Chí Minh.
Người đại diện theo ủy quyềncủa Công ty Cổ phần dịch vụ GHN: Bà Trần Thị Thiện M, sinh năm 1974 -Giám đốc kiểm soát nội bộ Địa chỉ: Số X, T C Đ, phường Y, quận T B, TP Hồ Chí Minh Người đại diện theo ủy quyền của Công ty Cổ phần dịch vụ GHN tham gia tố tụng tại phiên tòa: Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1994 Địa chỉ: Thôn T T, xã Đ B, huyện S L, tỉnh Vĩnh Phúc.
2. Chị Hà Thị Lan A - sinh năm 1995 Địa chỉ: Khu X, xã H L, thị xã P T, tỉnh Phú Thọ 3. Chị Hoàng Bích T, sinh năm 1993 Địa chỉ: Khu Tân Thành, thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ.
(Bà T có mặt, bà M, ông Đ, chị A, chị T đều vắng mặt tại phiên tòa)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 13/4/2023, Công ty cổ phần dịch vụ GHN ký hợp đồng dịch vụ với Lê Xuân T là nhân viên xử lý làm việc tại Công ty cổ phần dịch vụ GHN chi nhánh B M, thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ. Công việc cụ thể của T là nhận hàng vận chuyển từ các kho hàng khác của công ty về phân hàng cho nhân viên giao nhận của công ty để đi giao cho khách; Theo dõi các chuyến đi giao hàng - lấy hàng - trả hàng; thu tiền COD (tiền thu hộ khách hàng) từ nhân viên giao nhận sau đó nộp về công ty, đồng thời cập nhật lên hệ thống. T đi làm tại bưu cục GHN B M từ ngày 13/4/2023 nhưng do T không có giấy xác nhận lý lịch tư pháp nên chưa được công ty trả lương. Quá trình làm việc tại bưu cục B M, T thấy việc quản lý hàng hoá tại kho không chặt chẽ, do T biết cửa hàng C sử dụng dịch vụ vận chuyển của công ty GHN, nên hàng T đặt sẽ được gửi về bưu cục. Nên T đã nảy sinh ý định tự đặt hàng điện thoại trên mạng khi hàng gửi về bưu cục lợi dụng sơ hở trong quản lý thì sẽ chiếm đoạt bán lấy tiền chi tiêu cá nhân. Để thực hiện việc chiếm đoạt tài sản, ngày 31/5/2023 T mượn 01 sim điện thoại di động số 0868.629.5xx của chị Hoàng Bích T. Sau đó T đã lắp sim này vào trong điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDME, màu đen của T và đặt hàng trực tuyến trên trang mạng C.com.vn của cửa hàng điện thoại di động C. T đặt mua 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, loại 256GB, trị giá 29.690.000đồng (Hai mươi chín triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng). Khi đặt hàng T cung cấp thông tin giả về người đặt hàng và lấy tên Hà Văn H, địa chỉ người nhận là UBND xã T N thuộc xã T N, huyện T S, số điện thoại người nhận là 0868.629.5xx. Sau đó đến ngày 01/6/2023 thì T nhận được điện thoại từ C đến số điện thoại 0868.629.5xx để xác nhận việc đặt hàng của T và thông báo cho T chiếc điện thoại của T đặt sẽ được giao đến trong khoảng 01 đến 02 ngày tới. Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 02/6/2023,T đến bưu cục GHN B M để làm việcnhận các bao tải hàng từ xe tải của Công ty Cổ phần dịch vụ GHN chuyển đến cho bưu cục B M để chuyển đến cho khách hàng. Sau khi nhận các tải hàng thì T mang vào trong bưu cục để mở các bao tải hàng ra (gọi là rã kiện). T dùng máy để quét các mã vạch trên các tải hàng để báo về công ty là đã nhận hàng. Quá trình rã kiện và quét các mã vạch thì T thấy có một gói hàng có ghi tên mặt hàng ở ngoài là Iphone 14 promax từ C và đúng các thông tin người nhận là Hà Văn H, địa chỉ người nhận là UBND xã T N như T đã cung cấp, xác định đúng là chiếc điện thoại mình đã đặt, T dùng vỏ bao tải đựng các gói hàng vừa rã kiện che gói hàng này lại và đem giấu vào trong 01 tải đựng các vỏ bao tải rã kiện, mục đích để tránh sự phát hiện của camera giám sát tại bưu cục. Sau đó T mang bao tải đựng gói hàng vào trong khu vực bếp rồi quay ra tiếp tục làm việc. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày T lấy gói hàng Iphone 14 promax rồi mang về nhà cất giấu ở trong phòng ngủ của mình. Buổi tối T gọi đến số điện thoại 0394.100.890 của Bùi Cao Q,(là người cùng công ty với T) và nói với Q là: “Em vừa lấy trộm được điện thoại ở kho, bán hộ em với” thì Q hỏi là: “Máy gì”,T nói là: “Iphone 14 Promax” thì Q bảo chỉ bán được 14.000.000đồng(Mười bốn triệu đồng), T đồng ý và nhờ Q bán hộ. Sáng ngày 03/6/2023,T mang điện thoại đến nhà Q, tại nhà Q chỉ có Q và T, Q đưa cho T số tiền 14.000.000đồng (Mười bốn triệu đồng). Sau đó T đi về bưu cục tiếp tục làm việc. Để hợp thức việc trộm cắp của mình,T đã gán mã của đơn hàng điện thoại Iphone 14 promax vào trong tài khoản đăng nhập của hệ thống GHN giao cho anh Hoàng Anh D, là nhân viên giao hàng đi giao nhưng đã nghỉ việc, mục đích sau này nếu bị công ty phát hiện T sẽ báo mất hàng, công ty sẽ tính nợ truy thu vào tài khoản của T, không bị xử lý về pháp luật. Về phía Q sau khi mua được chiếc điện thoại do T trộm cắp, ngày 04/6/2023 Q đã bán lại cho chị Hà Thị Lan A, với giá 19.000.000 đồng (Mười chín triệu đồng). Số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) chênh lệch do bán điện thoại trộm cắp của T có được, Q đã sử dụng để tiêu xài cá nhân hết. Về phía Công ty cổ phần dịch vụ GHN, sau khi nhận được báo cáo của bưu cục B M, thị trấn T S về việc bị thất lạc chiếc điện thoại di động trên đã tiến hành kiểm tra lại hệ thống camera giám sát tại bưu cục B M, thị trấn T S, huyện T S thì phát hiện T có hành vi chiếm đoạt chiếc điện thoại Iphone 14 Promax nên đã tố cáo T đến Cơ quan CSĐT Công an huyện T S giải quyết.
Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan CSĐT - Công an huyện T S đã trưng cầu định giá chiếc điện thoại nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, loại 256GB của của hàng C tại thời điểm bị chiếm đoạt.
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 45/KL- HĐĐGTS Ngày 04/7/2023, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện T S kết luận: Trị giá chiếc điện thoại là 30.057.000đ (Ba mươi triệu không trăm năm mươi bảy nghìn đồng).
Tại Cơ quan điều tra Lê Xuân T và Bùi Cao Q đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời khai của T và Q hoàn toàn phù hợp với lời khai của người liên quan, người làm chứng, hiện trường cùng những tài liệu chứng cứ khác do Cơ quan điều tra đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số số 65/2023/HSST ngày 22 tháng 11 năm 2024 của Tòa án nhân dân huyện T S, tỉnh Phú Thọ đã quyết định:
Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1,khoản 2 Điều 51; Điều 65 - Bộ luật Hình sự 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân T 09 (Chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.Thời gian thử thách 18 ( Mười tám) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo T cho UBND thị trấn T S,huyện T S, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật thi hành án hình sự.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, i, s khoản 1khoản 2 Điều 51; Điều 35 - Bộ luật Hình sự 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Cao Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Cao Q số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Lê Xuân T và bị cáo Bùi Cao Q.
3. Về trách nhiệm dân sự:
Xác nhận ngày 10/7/2023 Công ty GHN đã bồi thường cho cửa hàng C giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím,số IMEI: 355216223533434số tiền 29.690.000đ (Hai mươi chín triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).Cửa hàng C đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì về chiếc điện thoại.
Xác nhận ngày 10/8/2023 bị cáo Lê Xuân T đã bồi thường giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, số IMEI: 355216223533434, số tiền là 29.690.000đồng (Hai mươi chín triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng) cho công ty GHN, bà Trần Thị Thiện M là người đại diện cho công ty GHN đã nhận đủ số tiền trên và đồng ý giao chiếc điện thoại trên cho bị cáo T sử dụng.
Xác nhận ngày 20/8/2023 Lê Xuân T đã tự nguyện trả lại cho Bùi Cao Q số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) và ngày 21/8/2023 Bùi Cao Q đã tự nguyện trả lại cho chị Hà Thị Lan A số tiền 19.000.000đ (Mười chín triệu đồng).
4. Về xử lý vật chứng vụ án:Áp dụng điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 - Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bị cáo Lê Xuân T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, số IMEI: 355216223533434, đã qua sử dụng, điện thoại đang trong tình trạng không sử dụng được, màn hình không hiển thị được,nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01(một) hộp đựng Iphone 14 promax, màu trắng, kích thước (10 x 18 x 03) cm, phía đáy hộp có in số IMEI: 355216223533434.
Trả lại cho chị Hoàng Bích T là chủ sở hữu hợp pháp 01 sim điện thoại di động số 0868.629.5xx.
Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội còn giá trị sử dụng gồm:01(một) điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDMI, màu đen, đã qua sử dụngcủa Lê Xuân T.
Ngày 20/12/2023 VKSND tỉnh Phú Thọ kháng nghị đề nghị cấp phúc thẩm hủy bản án hình sự sơ thẩm do có vi phạm thủ tục tố tụng như sau:
+ Xác định sai tội danh đối với bị cáo Lê Xuân T.
+ Xác định sai tư cách người tham gia tố tụng.
+ Vi phạm trong việc ap dụng biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng.
Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện VKSND tỉnh Phú Thọ vẫn giữ nguyên quyết định kháng nghị và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 355, Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, hủy bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HSST ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện T S, tỉnh Phú Thọ để điều tra lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận; trên cơ sở xem xét đầy đủ toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ trong hạn luật định nên được xem xét theo thủ tục phúc thẩm.
[2] Xét kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ, Hội đồng xét xử thấy rằng:
[2.1] Kháng nghị về tội danh đối với bị cáo Lê Xuân T.
Tòa án nhân dân huyện T S đã xét xử xét xử Bùi Cao Q về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” xét xử bị cáo Lê Xuân T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật. Bởi lẽ, Lê Xuân T là nhân viên làm việc tại Bưu cục GHN thuộc Công ty Cổ phần dịch vụ GHN, có địa chỉ tại phố B M, thị trấn T S, huyện T S, ngày 31/5/2023 bằng thủ đoạn gian dối, T đã mượn sim điện thoại của chị Hoàng Bích T, rồi lấy thông tin giả về người đặt hàng sau đó đã đặt hàng tại Cửa hàng điện thoại di động C (trên trang mạng C.com.vn) 01 chiếc điện thoại Iphone 14 promax. Đến khoảng 6 giờ 30 phút ngày 02/6/2023, T đến Bưu cục GHN để làm việc, lợi dụng sơ hở đã chiếm đoạt chiếc điện thoại trên trị giá là 30.057.000đ.
Hành vi của Lê Xuân T có đủ yếu tố cấu thành tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” qui định tại khoản 1 Điều 174- BLHS. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo T về tội danh trên là phù hợp. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận nội dung kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ về tội danh đối với bị cáo T.
[2.2] Kháng nghị về việc xác định sai tư cách tham gia tố tụng của đương sự trong vụ án, Bản án nêu trên của Toà án nhân dân huyện T S xác định có 02 người bị hại trong vụ án là: Cửa hàng điện thoại di động C (địa chỉ : Số X, Đại lộ H V, phường N T, thành phố V T, tỉnh Phú Thọ) và Công ty Cổ phần dịch vụ GHN (địa chỉ: Số X, X V N T, phường Y, quận B T, thành phố Hồ Chí Minh” (chỉ có 01 tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại Iphone 14 promax màu tím) là không đúng tư cách tham gia tố tụng của các đương sự theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Như đã phân tích trên, Công ty GHN C bị Lê Xuân T dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản nên xác định là bị hại trong vụ án là chính xác. Điều 62 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định: “Bị hại là cá nhân trực tiếp bị thiệt hại về thể chất, tinh thần, tài sản hoặc là cơ quan, tổ chức bị thiệt hại về tài sản, uy tín do tội phạm gây ra hoặc đe doạ gây ra”.Tòa án cấp sơ thẩm xác định cả Cửa hàng điện thoại di động C và Công ty Cổ phần dịch vụ GHN là bị hại trong vụ án là không đúng quy định vì sau khi tài sản bị mất thì Công ty GHN đã bồi thường cho C nên phải xác định Công ty GHN là “Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án” theo Điều 65 BLTTHS mới chính xác. Về nội dung kháng nghị này của VKSND tỉnh Phú Thọ là có căn cứ cần chấp nhận nhưng trong vụ án này bị cáo T đã bồi thường xong cho Công ty Cổ phần dịch vụ GHN, và công ty cũng đã bồi thường cho Cửa hàng điện thoại di động C, các đương sự đều nhất trí không có ý kiến gì, vì vậy chỉ cần rút kinh nghiệm đối với cấp sơ thẩm về nội dung này mà không cần thiết phải sửa bản án sơ thẩm.
[2.3] Kháng nghị về việc áp dụng biện pháp tư pháp và xử lý vật chứng: Quá trình điều tra, T đã trả cho Công ty GHN số tiền 29.690.000đ; công ty GHN đã trả cho cửa hàng C số tiền trên. Như vậy, chiếc điện thoại hiện thuộc sở hữu của T.
Trong vụ án này, bị cáo Bùi Cao Q là người biết rõ chiếc điện thoại T nhờ bán hộ là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn nhận lời bán hộ T. Q đã trả cho T 14.000.000đ, sau đó bán chiếc điện thoại trên cho chị Lan A với giá 19.000.000đ, hưởng lợi 5.000.000đ.
Quá trình điều tra ngày 20/8/2023 bị cáo T đã trả lại 14 triệu đồng cho Q. sau đó ngày 21/8/2023 Q đã trả lại cho chị Lan A số tiền 19 triệu đồng là số tiền chị Lan A đã mua điện thoại của Q. Như vậy, không thể xác định số tiền trên bị cáo Q được hưởng lợi trong việc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có vì số tiền 14 triệu đồng T trả cho Q và 05 triệu đồng do hưởng lợi từ việc bán chiếc điện thoại bị cáo Q đã trả lại toàn bộ cho chị Lan A. Tòa án cấp sơ thẩm không tịch thu số tiền 14 triệu đồng của bị cáo Q là phù hợp với pháp luật nên không có căn cứ để chấp nhận kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ.
Do vậy, từ các nhận định trên Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy cần chấp nhận một phần kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ về phần xác định tư cách đương sự. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HSST ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện T S, tỉnh Phú Thọ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật tố tụng hình sự;
Chấp nhận một phần kháng nghị của VKSND tỉnh Phú Thọ. .
Giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 65/2023/HSST ngày 22/11/2023 của Tòa án nhân dân huyện T S, tỉnh Phú Thọ.
1. Áp dụng khoản 1 Điều 174, điểm b, i, s khoản 1,khoản 2 Điều 51; Khoản 1,2,5 Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Lê Xuân T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
- Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân T 09 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 ( Mười tám) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo T cho UBND thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ giám sát, giáo dục. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND thị trấn T S, huyện T S, tỉnh Phú Thọ trong việc giám sát, giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách.
Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo qui định của Luật thi hành án hình sự.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì việc giám sát và giáo dục bị cáo được thực hiện theo khoản 1 Điều 92 Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Áp dụng khoản 1 Điều 323, điểm b, i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 35 Bộ luật Hình sự 2015.
Tuyên bố: Bị cáo Bùi Cao Q phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
Xử phạt: Bị cáo Bùi Cao Q số tiền 20.000.000đ (Hai mươi triệu đồng) để nộp ngân sách nhà nước.
Về hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo Lê Xuân T và bị cáo Bùi Cao Q.
3. Về trách nhiệm dân sự:
Xác nhận ngày 10/7/2023 Công ty cổ phần dịch vụ ghn đã bồi thường cho cửa hàng C giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím,số IMEI: 355216223533434số tiền 29.690.000đ (Hai mươi chín triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng).Cửa hàng C đã nhận đủ số tiền trên và không có yêu cầu đề nghị gì về chiếc điện thoại.
Xác nhận ngày 10/8/2023 bị cáo Lê Xuân T đã bồi thường giá trị chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, số IMEI: 355216223533434, số tiền là 29.690.000đồng (Hai mươi chín triệu sáu trăm chín mươi nghìn đồng) cho công ty cổ phần dịch vụ GHN, bà Trần Thị Thiện M là người đại diện cho công ty cổ phần dịch vụ GHN đã nhận đủ số tiền trên và đồng ý giao chiếc điện thoại trên cho bị cáo T sử dụng.
Xác nhận ngày 20/8/2023 Lê Xuân T đã tự nguyện trả lại cho Bùi Cao Q số tiền 14.000.000đ (Mười bốn triệu đồng) và ngày 21/8/2023 Bùi Cao Q đã tự nguyện trả lại cho chị Hà Thị Lan A số tiền 19.000.000đ (Mười chín triệu đồng).
4. Về xử lý vật chứng vụ án:Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 47 - Bộ luật hình sự; điểm a, khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự.
Trả lại cho bị cáo Lê Xuân T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 14 promax, màu tím, số IMEI: 355216223533434, đã qua sử dụng, điện thoại đang trong tình trạng không sử dụng được, màn hình không hiển thị được, nhưng cần tạm giữ để đảm bảo thi hành án; 01(một) hộp đựng Iphone 14 promax, màu trắng, kích thước (10 x 18 x 03) cm, phía đáy hộp có in số IMEI: 355216223533434.
Trả lại cho chị Hoàng Bích T là chủ sở hữu hợp pháp 01 sim điện thoại di động số 0868.629.5xx.
Tịch thu bán nộp ngân sách Nhà nước vật chứng là công cụ phương tiện phạm tội còn giá trị sử dụng gồm: 01(một) điện thoại di động nhãn hiệu XIAOMI REDMI, màu đen, đã qua sử dụng của Lê Xuân T.
Vật chứng là đồ vật hiện đang lưu giữ tại kho vật chứng của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện T S tại biên bản giao nhận vật chứng ngày 13/11/2023..
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 20/2024/HS-PT về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Số hiệu: | 20/2024/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Phú Thọ |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về