TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 8, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 171/2023/HS-ST NGÀY 17/11/2023 VỀ TỘI THỰC HIỆN HÀNH VI QUAN HỆ TÌNH DỤC KHÁC ĐỐI VỚI NGƯỜI TỪ ĐỦ 13 TUỔI ĐẾN DƯỚI 16 TUỔI
Ngày 17 tháng 11 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 8 xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 201/2023/TLST-HS ngày 09/10/2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 407/2023/QĐXXST-HS ngày 25/10/2023, đối với bị cáo:
Lê Văn N, sinh năm 1993, tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú, nơi ở: 2 T, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh ; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 5/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Trần Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 16/02/2023, đến ngày 31/3/2023 được thay đổi bằng biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” cho đến nay; bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Em Dương Thanh Trường H1, sinh ngày 26/6/2007; địa chỉ: 2 P, Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh . (có mặt)
- Người đại diện hợp pháp của trẻ H1: Ông Nguyễn Thanh P, sinh năm 1981; địa chỉ: 2 P, Phường F, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh (cha ruột). (có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Lê Văn N là quản lý đoàn lân L, địa chỉ: 5 L, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. Vào khoảng năm 2019, Dương Thanh Trường H1 đến đoàn lân L của Lê Văn N để xin việc, vừa làm vừa học, thì được N đồng ý. H1 được giao công việc là đánh chập cheng trong đoàn lân của N. H1 được trả lương theo mỗi lần đi biểu diễn.
Khoảng 16 giờ 30 phút, ngày 20/12/2020, sau khi làm xong công vi ệc thì H1 lên phòng ngủ tại lầu 1 gặp N để xin ứng số tiền 100.000 đồng. lúc này, N kêu bị đau đầu nên nhờ H1 xuống dưới mang chai dầu nóng lên để xoa bóp đầu cho N. Khi H1 mang chai dầu lên và ngồi xuống giường kế bên N, thì N nói chỉ cho H1 ứng được 50.000 đồng thôi, đồng thời đưa 50.000 đồng cho H1. Do cần tiền để sử dụng nên H1 năn nỉ thì N ôm H1 và dùng miệng hôn vào mặt và miệng của H1 rồi kêu H1 cởi quần áo ra, còn N tự cởi quần áo của mình. Sau khi cả hai cởi quần áo, N nằm đối diện H1 tiếp tục hôn H1 và dùng dương vật của N cọ sát vào dương vật của H1, do H1 khó chịu nên N quay người lại, đưa mông về phía H1 và nói “đít nè đút đi” (ý của N nói H1 dùng dương vật để đưa vào hậu môn của N), H1 cầm dương vật của H1 đưa vào hậu môn của N rồi quan hệ tình dục khoảng 03 đến 04 phút thì H1 xuất tinh vào trong hậu môn của N.
Sau khi quan hệ tình dục xong, N đưa nốt số tiền 50.000 đồng cho H1. Trong khi N và H1 thực hiện hành vi quan hệ tình dục thì Bùi Lê Thiên P1 là người làm chung đoàn lân có mở hé cửa và chứng kiến sự việc trên. Khi về tới nhà, ông Nguyễn Thanh P (cha ruột H1) hỏi và biết sự việc nên đã đưa H1 tới Công an P2, Quận H trình báo.
Tại Cơ quan điều tra và quá trình đối chất giữa N và H1, N khai nhận toàn bộ hành vi quan hệ tình dục với H1. Tuy nhiên, N cho biết việc H1 để dương vật vào hậu môn của N để quan hệ tình dục là do H1 sau khi được Nam âu yếm (hôn) thì khó chịu muốn quan hệ tình dục với N, chứ không phải N ép buộc.
Ngày 22/02/2021, Dương Thanh Trường H1 có đơn không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự đối với vụ việc trên và từ chối giám định xâm hại tình dục do không có hậu quả gì nghiêm trọng đối với H1.
Ngày 19/01/2021, Trung tâm Pháp Y Thành phố H có bản Kết luận giám định pháp y về tình dục đối với Lê Văn N như sau:
“- Không thấy thương tích vùng dương vật hay hậu môn.
- Không thấy tinh trùng vùng dương vật, bìu, tầng sinh môn hay hậu môn.
- Không hiện diện tế bào nam lạ, chỉ có tế bào nam của chủ thể trong dịch phết vùng dương vật, bìu, tầng sinh môn và hậu môn”.
Trách nhiệm dân sự: Lê Văn N đã bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho bị hại. Dương Thanh Trường H1 và người đại diện hợp pháp là ông Nguyễn Thanh P đã nhận bồi thường và không yêu cầu gì thêm.
Tại bản Cáo trạng số 155/CT-VKSQ8 ngày 31/7/2023, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 truy tố bị cáo Lê Văn N về tội “Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như cáo trạng đã truy tố . Bị cáo xác định chỉ thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác với H1 01 lần duy nhất vào ngày 20/12/2020, H1 tự nguyện quan hệ tình dục với bị cáo. Trước đó, vào khoảng tháng 6/2020 thì bị cáo có ý định hôn, chứ chưa hôn bị hại thì bị hại bỏ đi, giữa bị cáo và bị hại chưa có đụng chạm cơ thể. Bị cáo xác định lời khai tại phiên tòa là đúng.
Bị hại xác định: Bị hại vào làm việc tại đoàn lân L, công việc là đánh chập cheng. Sự việc ngày 20/12/2020 là do b ị hại tự nguyện quan hệ tình dục với bị cáo chứ bị cáo không ép buộc bị hại, giữa bị hại và bị cáo chỉ thực hiện hành vi quan hệ tình dục 01 lần duy nhất vào ngày 20/12/2020, trước đó vào khoảng tháng 6/2020 thì bị cáo có lần định hôn bị hại nhưng chưa kịp hôn thì bị hại đã bỏ đi. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị hại không yêu cầu khởi tố vụ án hình sự và từ chối giám định xâm hại tình dục. Bị hại xác định không bị ép cung hay dùng nhục hình, cũng không bị dụ dỗ mua chuộc.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 8 vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:
Áp dụng Khoản 1 Điều 145; các Điểm b, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm k Khoản 1 Điều 52; Điều 65 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lê Văn N từ 02 năm đến 03 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 04 năm đến 05 năm.
Bị cáo khai báo về hành vi phạm tội của mình phù hợp với nội dung bản cáo trạng đã được tóm tắt như trên, không tự bào chữa, không tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa;
Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, bị hại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 8, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, các đương sự không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp .
[2] Căn cứ vào tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; lời khai của bị cáo, bị hại tại phiên tòa có đủ cơ sở để kết luận như sau:
Vào ngày 20/12/2020, tại nhà số E L, Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Lê Văn N và bị hại Dương Thanh Trường H1 cùng tự nguyện thực hiện hành vi quan hệ tình dục (bị hại đưa đương vật của bị hại vào hậu môn bị cáo để quan hệ tình dục). Căn cứ Giấy khai sinh số 222/HT, Quyển số I/07 ngày 30/7/2007 cấp tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, tỉnh An Giang thì bị hại Dương Thanh Trường H1 sinh ngày 26/6/2007, tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội (ngày 20/12/2020) thì bị hại H1 được 13 tuổi 05 tháng 24 ngày.
Do vậy, hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” theo quy định tại Khoản 1 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Đối với các lời khai liên quan sự việc vào khoảng tháng 6/2020, cả bị cáo và bị hại đều xác định bị cáo mới chỉ định hôn bị hại, chứ chưa hôn, chưa có sự tiếp xúc cơ thể, ngoài lời khai của bị cáo và bị hại ra, không có các tài liệu chứng cứ khác, nên chưa đủ cơ sở để xử lý, cần tiếp tục điều tra, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau.
[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là cố ý và nguy hiểm, không những đã xâm phạm đến sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của công dân mà còn ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương. Do đó, cần phải xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa trong xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
[4.1] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và đã bồi thường thiệt hại cho bị hại.
- Ngoài quản lý đoàn lân L, thì bị cáo còn tham gia tích cực trong công tác Đoàn Thanh niên, từ thiện, liên tục được tặng nhiều bằng khen, giấy khen, được ghi tên vào sổ vàng danh dự, cụ thể như sau:
Căn cứ Theo Quyết định số 5956/QĐUB ngày 14/11/2016 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H, số sổ vàng 28/BK-UB, bị cáo được Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H tặng bằng khen “Đã có những đóng góp tích cực trong thực hiện các chương trình xã hội – từ thiện liên tục nhiều năm được bình chọn, tuyên dương là tấm gương thầm lặng mà cao cả trong phong trào thi đua yêu nước của thành phố - lần 2 (năm 2016)”;
Căn cứ Quyết định 2308/QĐ-UBND của Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận H2 tặng Giấy khen cho bị cáo do “ đã có thành tích tốt được tuyên dương trong liên hoan thanh niên dân tộc, tôn giáo Quận H làm theo Bác với chủ đề “Hoa thơm dâng Bác” năm 2015”.
Căn cứ Quyết định số 328 -QĐKT/TWH ngày 10/10/2022 của Ủy ban T1 tặng bằng khen cho bị cáo do “Đã có thành tích xuất sắc, tiêu biểu đạt giải thưởng “Thanh niên sống đẹp” năm 2022 .
Căn cứ Quyết định số 17 -QĐKT/ĐTN-VP ngày 15/3/2017 của Ban Thường vụ Quận đoàn Quận H tặng Giấy khen cho bị cáo do “ Đã có hoàn thành nhiệm vụ công tác Đ và phong trào thanh thiếu nhi Quận H nhiệm kỳ 2012-2017”.
Bị cáo được Ban, Quận H tuyên dương là điển hình của gương “ Thanh niên tiên tiến làm theo Bác”.
Do vậy, Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại các Điểm b, s, v Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.
- Ngoài ra, bị hại xin bãi nại, không yêu cầu khởi tố hình sự đối với bị cáo, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[4.2] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người quản lý nơi bị hại làm việc (quyết định vị trí công việc, tiền lương, ứng lương… của bị hại), nên áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “ Phạm tội đối với người lệ thuộc mình về công tác” theo quy định tại Điểm k Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[5] Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và có 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; bị cáo có nơi cư trú ổn định, rõ ràng.
Xét các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, xét nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử nhận thấy không cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội cũng đủ sức giáo dục, phòng ngừa chung trong xã hội. Căn cứ Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự và Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ -HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thì bị cáo đủ điều kiện để cho hưởng án treo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường cho bị hại, bị hại và đại diện hợp pháp của bị hại trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đều không có yêu cầu gì khác, nên không xem xét.
[7] Sau khi xảy ra sự việc, bị khởi tố, truy tố thì bị cáo không còn quản lý hoạt động đoàn lân Long N1, do đó không có căn c ứ áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo theo quy định tại Khoản 4 Điều 145 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
[8] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ Khoản 1 Điều 145; các Điểm b, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điểm k Khoản 1 Điều 52 và Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt: Bị cáo Lê Văn N 03 (ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”, thời gian thử thách là 05 (năm) năm, tính từ ngày tuyên án.
Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân Phường A, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách. Bị cáo phải thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 (hai) lần trở lên thì Tòa án có thể buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Khoản 1 Điều 93 Luật Thi hành án hình sự.
2. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ vào các Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.
3. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày Tòa tuyên án, bị cáo, bị hại, người đại diện hợp pháp của bị hại được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm đến Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh./
Bản án về tội thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác đối với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi số 171/2023/HS-ST
Số hiệu: | 171/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận 8 - Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/11/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về