TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH
BẢN ÁN 66/2023/HS-ST NGÀY 10/07/2023 VỀ TỘI THIẾU TRÁCH NHIỆM GÂY THIỆT HẠI ĐẾN TÀI SẢN CỦA NHÀ NƯỚC, CƠ QUAN, TỔ CHỨC, DOANH NGHIỆP
Ngày 10 tháng 7 năm 2023 tại Toà án nhân dân tỉnh Nam Định xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 37/2023/TLST-HS ngày 08 tháng 5 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2023/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 6 năm 2023 đối với các bị cáo:
1. Họ và tên: Đoàn Quang T, sinh năm 1975; Giới tính: Nam; ĐKTT: 15/12/51 đường Phan Bội C, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không;Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu: 03607501xxxx cấp ngày 13 tháng 8 năm 2021; Nơi cấp: Cục CSQLHC về TTXH – Bộ Công an; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp trước khi bị bắt: Phụ kho của Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội - Chi nhánh Nam Định; Con ông Đoàn Quang A, liệt sỹ năm 1986; con bà Trần Thị M (đã chết); Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất; Vợ Hoàng Thị Bích Đ, sinh năm 1990; có 05 con, con lớn nhất sinh năm 1998, con nhỏ nhất sinh năm 2018; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01-02-2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh Nam Định. Có mặt.
2. Họ tên: Nguyễn Duy K, sinh năm 1993; Giới tính: Nam; Nơi ĐKTT: Số nhà 9/3/71/192 Trần Huy L, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; Nơi ở: Tổ 4, phường T, thành phố N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp trước khi bị bắt: Phụ kho của Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội - Chi nhánh Nam Định; Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu: 03609300xxxx cấp ngày 25 tháng 04 năm 2021; Nơi cấp: Cục Cảnh sát QLHC về TTXH- Bộ Công an; Con ông Nguyễn Văn Đ (là thương binh, đã chết) và bà Nguyễn Thị N; Gia đình có 02 chị em, bị cáo là con thứ hai; chưa có vợ con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01-02-2023, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định. Có mặt.
3. Họ tên: Đoàn Xuân L, sinh năm 1989; Giới tính: Nam; ĐKTT: Xóm C, thôn V, xã N, thành phố N, tỉnh Nam Định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề nghiệp trước khi bị bắt: Phụ kho của Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội - Chi nhánh Nam Định; Số CMND/Thẻ CCCD/Hộ chiếu: 03608900xxxx cấp ngày 29 tháng 4 năm 2021; Nơi cấp: Cục CSQLHC về TTXH- Bộ Công an; Con ông Đoàn Xuân Tr, sinh năm 1958 và bà Vũ Thị L, sinh năm 1959; Gia đình có 02 anh em, bị cáo là con thứ 02; vợ Phạm Thị Quế C, sinh năm 1992; có 01 con sinh năm 2022; Tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 01-02-2023 đến ngày 13-4-2023 được áp dụng biện pháp ngăn chặn “Bảo lĩnh”. Bị cáo tại ngoại, có mặt.
- Bị hại: Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội Địa chỉ: B8-B10/D21 khu đô thị mới Cầu Giấy, phường Dịch Vọng Hậu, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Pattaphong Iamsuro Người đại diện theo ủy quyền:
1. Ông Đinh Quang T – Trưởng phòng hậu cần - Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội. Có mặt.
2. Bà Cao Mai H – Chuyên viên tuân thủ và pháp chế cao cấp - Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội. Có mặt.
- Người làm chứng:
1. NLC1. Vắng mặt
2. NLC2. Vắng mặt
3. NLC3. Vắng mặt
4. NLC4. Vắng mặt
5. NLC5. Vắng mặt
6. NLC6. Vắng mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội (sau đây gọi tắt là Công ty Th) thành lập theo giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 010492xxxx do Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội cấp ngày 29/9/2010.
Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội thành lập chi nhánh tại Nam Định và được Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Nam Định cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động chi nhánh số 010492xxxx-018; đăng ký lần đầu ngày 31/7/2018; đăng ký thay đổi lần thứ 2 ngày 12/6/2020. Công ty Th chủ yếu kinh doanh các mặt hàng: Nước giặt, nước xả, dầu gội, dao cạo râu, băng vệ sinh.
Tại tỉnh Nam Định, Công ty Th có kho hàng đặt tại đường D5, khu công nghiệp Hòa Xá, phường Mỹ Xá, thành phố Nam Định. Ngày 25/6/2018, Công ty Th ký Hợp đồng lao động số 333/PTHN/18/HĐLĐ-PT với NLC4 và phân công chức danh là nhân viên thủ kho tại chi nhánh Nam Định. H3 có nhiệm vụ nhập hàng, xuất hàng, quản lý hàng hóa tại kho chi nhánh. Quá trình quản lý kho, H3 được giao chìa khóa kho để mở cửa, đóng cửa khi nhập hàng, xuất hàng, kiểm kê hàng và phải chịu trách nhiệm bồi thường những thiếu hụt về hàng hóa do hư hỏng, thất thoát.
Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội ký hợp đồng lao động số 862/PTHN/20/HĐLĐ-PT ngày 01-12-2020 thời hạn là 01 năm và số 729/PTHN/21/HĐLĐ-PT ngày 01-12-2021, thời hạn là 03 năm với Đoàn Quang T; phân công chức danh chuyên môn phụ kho tại chi nhánh Nam Định. Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội ký hợp đồng lao động số 193/PTHN/21/HĐLĐ-PT ngày 25-4-2021 với Nguyễn Duy K, thời hạn là 01 năm; phân công chức danh chuyên môn phụ kho tại chi nhánh Nam Định. Ngày 06-11-2021 Đoàn Xuân L ký hợp đồng lao động số 690/PTHN/21/HĐLĐ-PT với Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội, thời hạn là 01 năm; phân công chức danh chuyên môn phụ kho tại chi nhánh Nam Định. Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L chịu sự quản lý và chỉ đạo của NLC4 (thủ kho). Có nhiệm vụ chấp hành nghiêm túc những điều đã quy định trong nội quy; hàng ngày lấy đơn hàng và nhập hàng dưới sự phân công của thủ kho; Dán tem giá, đóng hàng khuyến mãi, sắp xếp hàng hóa trong kho, làm vệ sinh chống mối mọt, diệt côn trùng, PCCC trong kho theo sự phân công của thủ kho; Hỗ trợ giao hàng theo sự phân công của thủ kho khi có phát sinh. Có trách nhiệm phải bồi thường những thiếu hụt hàng hóa, hàng khuyến mãi, vật liệu bày biện do hư hỏng, mất mát; Phải bồi thường thiệt hại vật chất và chịu trách nhiệm trước pháp luật do vi phạm nội quy phòng cháy gây hỏa hoạn.
Theo quy định của Công ty Th, việc xuất nhập hàng hóa như sau: Khi xuất hàng hóa phải có phiếu xuất kho, trên phiếu xuất kho phải có chữ ký của kế toán, nhân viên giao nhận hàng và chữ ký của thủ kho. Khi nhập hàng phải có phiếu giao hàng, trên phiếu giao hàng có chữ ký của thủ kho nhận hàng. Công ty quản lý hàng hóa trên hệ thống thông qua các chứng từ xuất hàng, nhập hàng có xác nhận của kế toán, thủ kho khi có phiếu xuất kho. NLC4 sẽ đưa cho Đoàn Xuân L, Nguyễn Duy K, Đoàn Quang T phiếu xuất kho trong đó ghi số L, tên mặt hàng, chữ ký kế toán, người lập phiếu và thủ kho để 3 phụ kho vào trong kho lấy đủ số hàng xếp ra ngoài cửa kho, H3 sẽ kiểm tra lại đúng số L, đúng mặt hàng để B2 giao cho các nhân viên giao hàng chở đi giao cho khách hàng bằng ô tô của Công ty hoặc xe máy của nhân viên.
Tuy nH4, khoảng cuối năm 2020 NLC4 cần tiền tiêu sài cá nhân nên đã lợi dụng chức năng, nhiệm vụ thủ kho tự ý lấy hàng trong kho chi nhánh Nam Định của Công ty Th do H3 quản lý để bán mà không có phiếu xuất kho. Thời gian đầu do chưa quen biết khách hàng nên H3 đã nhờ một số nhân viên giám sát của Công ty Th chào hàng với khách hàng và bán hàng cho H3. Khi đã quen biết các đại lý trên địa B2 thành phố Nam Định, H3 đã chủ động liên hệ và trực tiếp bán hàng cho các đại lý; trong đó có đại lý Ninh H4 (ở 30/245 đường Kênh, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định) do NLC1, sinh năm 1983 đứng tên chủ hộ kinh doanh; đại lý Kh B2 (ở xóm Mỹ Tiến 2, xã Nam Phong, thành phố Nam Định) do NLC2, sinh năm 1975 đứng tên chủ hộ kinh doanh; đại lý Hiền L2 (ở số nhà 278 đường Đỗ Mạnh Đạo, phường Lộc Hòa, thành phố Nam Định) do NLC6, sinh năm 1978 đứng tên chủ hộ kinh doanh. Khi tự ý xuất hàng trong kho để bán lấy tiền tiêu sài cá nhân, H3 chỉ đạo cho ba phụ kho là Đoàn Xuân L, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K lấy hàng hóa ra ngoài cửa kho nhưng không có phiếu xuất kho. Khi xe của các đại lý đến thì H3 cùng ba phụ kho và lái xe xếp hàng lên xe cho khách hàng sau đó khách hàng thanh toán bằng hình thức chuyển tiền vào tài khoản cá nhân của H3.
Để che giấu việc thiếu hụt hàng hóa trong kho do đã tự ý bán đi, vào khoảng đầu tháng 10/2020, H3 gọi điện cho anh Nguyễn Văn H2 (Phó Giám đốc Công ty TNHH Bao bì kim loại CFC, địa chỉ: Lô 83 + 84 đường N3, cụm công nghiệp An Xá, xã Mỹ Xá, thành phố Nam Định) để mua vỏ thùng catton. H3 trực tiếp đến Công ty anh H2 để đặt mua vỏ thùng theo yêu cầu kích thước của H3. H3 đã tự đặt mua 4779 vỏ thùng và yêu cầu chở đến kho hàng của Công ty Th tại Nam Định. Thời gian đầu, H3 tự dán các vỏ thùng caton rồi xếp vào giữa các thùng hàng có thật. Đến khoảng cuối năm 2021, H3 chỉ đạo cho phụ kho dán băng dính các vỏ bìa catton thành thùng rỗng rồi xếp vào giữa các thùng hàng khi Công ty Th kiểm kê hàng hóa. Ngoài ra, trong quá trình quản lý kho hàng, H3 còn cho nhân viên bán hàng và nhân viên giám sát vay hàng trong kho khi cần xuất hàng gấp cho khách, sau đó nhân viên bán hàng và nhân viên giám sát hoàn phiếu xuất kho trả cho H3.
Từ năm 2020 đến tháng 4/2022, NLC4 đã tự ý lấy hàng trong kho đem bán chiếm đoạt tổng số hàng hóa trị giá 8.862.653.401 đồng của Công ty. Trong đó, từ tháng 11/2021 đến tháng 4/2022, H3 đã chỉ đạo 3 phụ kho Đoàn Xuân L, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K xuất kho khi không có phiếu xuất kho để giao hàng cho các đại lý Kh B2, Ninh H4, Hiền L2 và giám sát Nguyễn Đức Th để H3 chiếm đoạt tổng số hàng hóa trị giá 4.017.002.600 đồng. Cụ thể:
- Trong thời gian từ ngày 08-11-2021 đến tháng 4-2022, NLC4 nhờ NLC5 là giám sát bán hàng của Công ty Th liên hệ để chào bán hàng và H3 trực tiếp liên hệ, giao dịch với chị Vũ Thị Kh (vợ NLC2, chủ đại lý Kh B2) ở địa chỉ: Xóm Mỹ Tiến 2, xã Nam Phong, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định để chào bán hàng hóa là dầu gội, dầu xả, nước giặt. Sau khi Đại hoặc H3 thỏa thuận được việc mua bán hàng hóa với chị Kh thì đại lý Kh B2 trực tiếp cho xe ô tô đến kho chi nhánh Nam Định để nhận hàng. Khi xe đến thì H3 gửi danh sách hàng cần chuyển đi vào nhóm zalo gồm Đoàn Xuân L, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K và H3. T, L, K và H3 lấy hàng mang ra cửa kho cho H3 và cùng H3 xếp hàng lên xe của đại lý Kh B2. Chị Kh chuyển tiền thanh toán vào tài khoản của H3 số 0831000079277 (ngân hàng Vietcombank). NLC4 đã 29 lần chỉ đạo 3 phụ kho lấy hàng bán cho đại lý Kh B2 với tổng số hàng hóa trị giá 2.754.589.000 đồng.
- Ngày 20-4-2022 H3 đã nhắn tin vào nhóm zalo gồm H3 và 3 phụ kho với nội dung chỉ đạo 3 phụ kho xuất 350 thùng Ariel tổng trị giá 221.453.600 đồng giao cho Nguyễn Đức Th (sinh năm 1990, ở số nhà 16, tổ 1, phường Hai Bà Trưng, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam) là giám sát bán hàng của Công ty Th. Do trước đó H3 thỏa thuận với Th, nhờ Th lấy bán đí để trừ tiền H3 nợ Th. Việc xuất hàng không có phiếu xuất kho. Ngày 21/4/2022, Th đã bán 350 thùng nước giặt Ariel cho anh Huy ở chân cầu Vĩnh Tuy gần cảng Hà Nội để trừ số tiền H3 nợ. H3 không trao đổi, B2 bạc và không chia khoản tiền nào cho 3 phụ kho.
- Từ ngày 17-01-2022 đến ngày 18-4-2022, H3 liên hệ với chị Trần Thị H4 (vợ anh Ninh chủ đại lý Ninh H4) ở địa chỉ: 30/245 đường Kênh, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định đề chào bán hàng hóa trong kho do H3 quản lý. Sau khi thỏa thuận được với chị H4 về việc mua bán hàng hóa thì NLC1 trực tiếp lái xe ô tô của gia đình đến kho để lấy hàng. H3 chỉ đạo 3 phụ kho Đoàn Xuân L, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K xếp hàng trong kho ra ngoài cửa kho, khi xe anh Ninh đến thì xếp hàng hóa lên xe, xếp xong lái xe chở hàng về. Chị H4 chuyển tiền thanh toán vào tài khoản của H3 số 0831000079277 tại ngân hàng Vietcombank. NLC4 đã 09 lần chỉ đạo 3 phụ kho xếp hàng từ trong kho ra để H3 lấy bán cho đại lý Ninh H4 với tổng số hàng hóa trị giá 753.286.000 đồng.
- Từ ngày 23-12-2021 đến ngày 03-3-2022, H3 liên hệ với NLC6 (chủ đại lý Hiền L2 ở địa chỉ: 278 đường Đỗ Mạnh Đạo, phường Lộc Hòa, thành phố Nam Định) để bán hàng Bỉm Pamper lấy của Công ty cho chị Hiền. Thời gian đầu H3 thuê xe ngoài (H3 không nhớ thuê xe của ai) để chở hàng đến nhà chị Hiền, thời gian sau chị Hiền cho xe đến lấy hàng, thường vào buổi sáng. Khi xe đến lấy hàng H3 chỉ đạo 3 phụ kho là Nguyễn Duy K, Đoàn Quang T, Đoàn Xuân L xếp hàng trong kho ra ngoài cửa kho khi xe đến xếp lên xe. Chị Hiền chuyển tiền thanh toán vào tài khoản của H3 số 0831000079277 (ngân hàng Vietcombank). Tổng cộng H3 đã 09 lần chỉ đạo 03 phụ kho xếp hàng từ trong kho ra để H3 lấy bán cho đại lý Hiền L2 với tổng số hàng hoá trị giá 287.674.000 đồng.
Ngày 20/4/2022, H3 bị Cơ quan CSĐT – Công an thành phố Nam Định bắt về hành vi đánh bạc. Do không liên lạc được với H3 nên ngày 23/4/2022 Công ty kiểm kê kho có sự chứng kiến của chị Phạm Thị Thu Hoài (là vợ H3), chị Trần Thanh Tú (chị gái H3), đã phát hiện bị thất thoát nhiều hàng hóa trong kho. Công ty tiến hành niêm phong kho hàng và báo Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Nam Đinh. Ngày 29/4/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Nam Định, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Nam Định và các thành phần liên quan tiến hành khám nghiệm hiện trường xác định: có 3.200 vỏ thùng bìa caton rỗng xếp vào giữa các thùng có hàng trong kho và ghi nhận số L hàng hóa có ở trong kho. Ngày 05/05/2022, Cơ quan CSĐT Công an thành phố Nam Định ghi nhận hiện trường phía ngoài kho có nhiều vỏ bìa caton gấp gọn xếp thành đống.
Công ty CPTM Th Hà Nội cung cấp các tài liệu chứng minh: Hàng hóa đầu vào, hàng hóa đầu ra; Bảng tổng hợp xuất nhập tồn từ ngày 19/12/2021 đến 20/4/2022; Bảng tổng kiểm kê hàng hóa tại kho chi nhánh Nam Định, ngày 19/12/2021 và Bản kiểm kê hàng hóa thất thoát tại kho chi nhánh Nam Định ngày 29/4/2022. Công ty xác định: Số L hàng hóa trong kho chi nhánh Nam Định bị thất thoát là 137.475 sản phẩm (quy ra lẻ) tương đương giá trị 9.071.416.187 đồng, thừa 51 thùng và 89 sản phẩm lẻ của 3 loại mặt hàng tương ứng giá trị 27.525.451 đồng .
Tại Bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HDDGTS ngày 11/8/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự tỉnh Nam Định xác định: giá trị của 137.475 sản phẩm là 9.127.605.986 đồng; trị giá 350 thùng Ariel là 221.453.600 đồng.
Tại CQĐT, NLC4 thừa nhận hành vi như nêu trên và khai nhận: H3 tự ý lấy hàng trong kho của Công ty Th đem bán lấy tiền chiếm đoạt từ năm 2020, cụ thể không nhớ đã lấy bao nhiêu hàng hóa, ngoài bán cho các đại lý Kh B2, Ninh H4, Hiền L2 thì H3 còn bán cho nhiều đại lý khác nhưng không nhớ hết các đại lý đã mua hàng của H3. H3 không có ý kiến gì về việc Công ty xác định số hàng thất thoát là 135.475 sản phẩm. Khi H3 chỉ đạo 03 phụ kho lấy hàng ra xuất nhưng không có phiếu xuất kho thì H3 không nói cho phụ kho biết H3 lấy hàng để bán đi. H3 đã sử dụng toàn bộ số tiền có được do bán hàng đã chiếm đoạt của Công ty Th vào mục đích cá nhân, H3 không chia cho ai, hiện H3 không có khả năng hoàn trả.
Tại CQĐT, phụ kho Đoàn Xuân L, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K khai nhận: Ba phụ kho làm việc trực tiếp tại kho dưới sự chỉ đạo của NLC4 là thủ kho. Có nhiệm vụ chấp hành nghiêm túc những điều đã quy định trong nội quy, hàng ngày lấy đơn hàng và nhập hàng dưới sự phân công của thủ kho; Dán tem giá, đóng hàng khuyến mãi, sắp xếp hàng hóa trong kho, làm vệ sinh chống mối mọt, giệt côn trùng, PCCC trong kho theo sự phân công của thủ kho; Hỗ trợ giao hàng theo sự phân công của thủ kho khi có phát sinh. Về quy trình xuất kho, Công ty quy định khi xuất hàng phải có phiếu xuất kho và phiếu điều chuyển nội bộ. Trên phiếu xuất kho và phiếu điều chuyển nội bộ có chữ ký của kế toán và thủ kho; hàng hóa sẽ giao cho lái xe các chi nhánh nhập hàng và nhân viên giao, nhận để giao cho khách hàng; xe nhận hàng là xe của Công ty. Trong quá trình làm việc, NLC4 chỉ đạo L, K và T trên Zalo “nhóm kho” hoặc chỉ đạo trực tiếp ba phụ kho thực hiện xuất hàng không có phiếu xuất kho cho các đại lý Ninh H4, Kh B2, Hiền L2 và xuất hàng cho Nguyễn Đức Th. Ba phụ kho xếp hàng ra cửa kho, H3 kiểm đếm rồi xếp hàng lên xe cho khách hàng. Bên cạnh đó H3 chỉ đạo L, K và T dán các vỏ bìa catton thành thùng rỗng rồi xếp vào trong các thùng hàng thật giúp H3 che giấu thiếu hụt hàng hóa khi Công ty kiểm kê hàng hóa trong kho. Thực tế H3 vẫn cho các giám sát và nhân viên bán hàng vay hàng không có phiếu xuất kho nên không biết việc H3 chiếm đoạt hàng của Công ty khi chỉ đạo phụ kho xuất hàng nhưng không có phiếu xuất kho. Bản thân T, K, L không được hưởng lợi gì từ việc xuất hàng không có phiếu xuất kho theo sự chỉ đạo của H3.
Tại CQĐT, Trần Thị Tr1 (là Kế toán kho) khai báo: Tr1 được Công ty giao nhiệm vụ làm kế toán hàng hóa chi nhánh Nam Định. Hàng ngày chị Tr1 thực hiện các quy trình xuất, nhập hàng, chuyển hàng nội bộ cho các chi nhánh, làm thao tác nhập hàng trả lại của khách hàng trên hệ thống. Có trách nhiệm chốt tồn kho và thực hiện đối chiếu tồn kho hàng ngày, bảo đảm tồn kho chính xác 100%; Lập kế hoạch kiểm kê kho thực tế vào cuối tháng và kiểm kê kho xác xuất hàng ngày. Không biết việc H3 chiếm đoạt hàng của Công ty Th.
Tại CQĐT, NLC5, Nguyễn Đức Th, chị Vũ Thị Kh, NLC6, chị Trần Thị H4 khai nhận việc đến kho của Công ty Th lấy hàng đã mua của H3 nhưng không có phiếu xuất kho như nêu trên.
Ngày 27/9/2022, CQĐT đã khởi tố đối với NLC4, NLC5, Nguyễn Đức Th về tội “Tham ô tài sản”. Ngày 12-5-2023, TAND tỉnh Nam Định đã xét xử NLC4, NLC5, Nguyễn Đức Th về tội “Tham ô tài sản”.
* Về vật chứng: Vật chứng thu giữ đã được xử lý trong vụ án “Tham ô tài sản” * Về phần dân sự: Đã được giải quyết trong vụ án “Tham ô tài sản” * Quá trình điều tra, thủ kho NLC4 khai nhận đã tự ý lấy hàng trong kho của công ty Th đem bán lấy tiền chiếm đoạt từ năm 2020. Cụ thể không nhớ là đã lấy bao nhiêu hàng hóa; ngoài bán cho các địa lý Kh B2, Ninh H4, Hiền L2 ra thì H3 còn bán cho nhiều đại lý khác nhưng không nhớ hết các đại lý đã mua hàng của H3. Đối với số hàng hoá trị giá 4.845.650.801 còn lại mà H3 đã chiếm đoạt: Do không xác định được thời điểm H3 lấy và bán cho ai trong khi các phụ kho ký hợp đồng lao động với Công ty CPTM Th ở các thời điểm khác nhau nên không có căn cứ xác định trách nhiệm của 03 phụ kho T, K, L đối với thiệt hại này.
* Cáo trạng số: 42/CT-VKS-P3 ngày 05-5-2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định truy tố: Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L về tội “THIẾU trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” theo quy định tại khoản 3 Điều 179 Bộ luật hình sự.
* Tại phiên toà:
- Các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L đều thừa nhận: Các bị cáo phạm tội như nội dung cáo trạng truy tố là đúng, không bị oan. Do thiếu hiểu biết pháp luật nên đã có việc làm sai trái, vi phạm pháp luật. Nay đã nhận ra sai lầm, mong Hội đồng xét xử xem xét hoàn cảnh gia đình, giảm nhẹ hình phạt, cho các bị cáo một hình phạt thấp nhất để các bị cáo sớm được trở về với gia đình và xã hội làm công dân tốt.
- Đại diện công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội trình bày: Các nhân viên khi được tuyển dụng thì đều được đào tạo nên đều phải biết về chức năng, nhiệm vụ của mình. Đến nay các bị cáo đều đã phải chịu trách nhiệm trước pháp luật; về phần bồi thường NLC4 là thủ kho đã phải chịu trách nhiệm bồi thường cho công ty; bị cáo T, K và L đã nhận ra lỗi lầm của mình. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định trình bày luận tội: Giữ nguyên nội dung cáo trạng và quyết định đã truy tố. Sau khi xem xét đánh giá tính chất mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ: khoản 3 Điều 179; điểm s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Quang T từ 4 năm 6 tháng đến 5 năm tù.
Căn cứ: khoản 3 Điều 179; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự; xử phạt Nguyễn Duy K từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù.
Căn cứ: khoản 3 Điều 179; điểm s, t khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 65 Bộ luật hình sự; xử phạt Đoàn Xuân L từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Nam Định, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.
[2] Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên toà hôm nay; Biên bản kiểm kê đối chiếu tại kho hàng chi nhánh Nam Định; Bản kết luận giám định; Kết luận định giá và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đủ căn cứ kết luận: Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L là nhân viên phụ kho Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội - chi nhánh Nam Định. Phụ kho có nhiệm vụ chấp hành nghiêm những điều đã quy định trong nội quy; hàng ngày lấy hàng hóa theo đơn hàng, nhập hàng, xuất hàng đúng quy định theo sự phân công của thủ kho NLC4. Công ty CPTM Th Hà Nội quy định quá trình làm việc phụ kho có trách nhiệm bảo quản hàng hóa trong kho, việc xuất kho hàng hóa phải có chứng từ là phiếu xuất kho; trên phiếu xuất kho phải có chữ ký của kế toán, nhân viên giao nhận hàng và của thủ kho. Từ tháng 11/2021 đến tháng 4/2022, Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L đã thực hiện không đầy đủ trách nhiệm của mình; đã xuất hàng hóa trong kho của Công ty không có phiếu xuất kho cho các đại lý Hiền L2, Kh B2, Ninh H4 và cho Nguyễn Đức Th theo sự chỉ đạo của NLC4 để H3 chiếm đoạt; gây thiệt hại cho Công ty cổ phần thương mại Th Hà Nội số hàng hoá trị giá 4.017.002.600 đồng.
Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L là những người làm việc trực tiếp tại kho, có trách nhiệm quản lý tài sản trong kho nhưng đã thiếu trách nhiệm, không thực hiện đầy đủ quy định của Công ty về xuất hàng hóa trong kho dẫn đến thủ kho NLC4 tự ý lấy hàng hóa trong kho bán và chiếm đoạt tiền. Các bị cáo không biết mục đích của H3 xuất bán hàng hóa trong kho của Công ty là để chiếm đoạt. Khi NLC4 chỉ đạo 3 phụ kho lấy hàng ra xuất nhưng không có phiếu xuất kho thì H3 không nói cho phụ kho biết H3 lấy hàng để bán đi. Khi NLC4 xuất hàng hóa trong kho bán cho các đại lý và xuất cho Nguyễn Đức Th đều không có phiếu xuất kho; các bị cáo biết việc xuất hàng hóa là không đúng quy định của Công ty nhưng vì tin tưởng H3 không có việc chiếm đoạt tài sản của Công ty nên vẫn làm theo sự chỉ đạo của H3. Do vậy, các phụ kho Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L không là đồng phạm với NLC4 về tội “Tham ô tài sản”. Quá trình điều tra, NLC4 khai nhận Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L không biết H3 bán hàng hóa của Công ty để chiếm đoạt; H3 không trao đổi, B2 bạc và không chia khoản tiền nào cho 3 phụ kho.
Như vậy, hành vi nêu trên của Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L đã đủ yếu tố cấu thành tội “THIẾU trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp”; tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 179 của Bộ luật hình sự.
Quan điểm truy tố và luận tội của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Nam Định là có căn cứ pháp lý.
[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Các bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng theo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.
- Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L đều thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đoàn Quang T có bố đẻ là Liệt sỹ nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm x khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo Đoàn Xuân L, Nguyễn Duy K đã có thành tích tích cực giúp cơ quan Công an trong việc phát hiện tội phạm, cung cấp thông tin có giá trị cao trong công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nên bị cáo L và K còn được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Bị cáo Nguyễn Duy K có bố đẻ là thương binh; bị cáo Đoàn Xuân L có hoàn cảnh gia đình khó khăn, là lao động chính trong gia đình; tại phiên tòa, đại diện Công ty CPTM Th Hà Nội xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Do vậy, các bị cáo K, L, T được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của các bị cáo, xét thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của doanh nghiệp, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản của doanh nghiệp. Tuy nH4, các bị cáo đều có nhân thân tốt, không có tiền án tiền sự; tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý; thủ kho NLC4 không trao đổi, B2 bạc và không chia khoản tiền nào cho các bị cáo; các bị cáo đều có từ 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Do vậy, cần áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự; ấn định cho các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Tuy nH4, xét bị cáo Đoàn Quang T có thời gian được tuyển dụng vào làm thủ kho tại công ty nhiều hơn nên cần ấn định mức hình phạt cao hơn các bị cáo khác, bị cáo Nguyễn Duy K hiện đang tạm giam; do vậy, cần cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo T và K ra khỏi xã hội một thời gian nhằm mục đích trừng trị, cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
Đối với bị cáo Đoàn Xuân L, mới được tuyển dụng làm phụ kho từ tháng 11/2021; bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Trong quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối hận về việc làm của bản thân; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng. Xét thấy, không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội mà cho bị cáo được hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách gấp đôi theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát cũng đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
[5] Về án phí: Các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[6] Trần Thị Tr1 là kế toán Công ty CPTM Th Hà Nội – Chi nhánh Nam Định. Trong bản hợp đồng Tr1 ký với công ty có nội dung: Đối chiếu số liệu ngày, kiểm kê tháng. Hàng ngày Tr1 thực hiện các quy trình xuất, nhập hàng, chuyển hàng nội bộ cho các chi nhánh, làm thao tác nhập hàng trả lại của khách hàng trên hệ thống. Có trách nhiệm chốt tồn kho và thực hiện đối chiếu tồn kho hàng ngày, bảo đảm tồn kho chính xác 100%; Lập kế hoạch kiểm kê kho thực tế vào cuối tháng và kiểm kê kho xác xuất hàng ngày. NLC4 (thủ kho) tự ý lấy hàng trong kho công ty với số L lớn đem bán chiếm đoạt tiền diễn ra trong khoảng thời gian dài (từ năm 2020 đến tháng 4/2022). Do vậy, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền cần xem xét vai trò, trách nhiệm của kế toán Trần Thị Tr1 trong việc để thất thoát tài sản của công ty CPTM Th Hà Nội – Chi nhánh Nam Định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố: Các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L phạm tội “THIẾU trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp”.
2. Căn cứ: khoản 3 Điều 179; các điểm s, x khoản 1 và khoản 2 Điều 51;
điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Đoàn Quang T 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01-02-2023.
Căn cứ: khoản 3 Điều 179; các điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Duy K 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01-02-2023.
Căn cứ: khoản 3 Điều 179; các điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; khoản 1 Điều 54; Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Xử phạt bị cáo Đoàn Xuân L 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 05 năm, tính từ ngày tuyên án. Bị cáo đã bị tạm giam từ ngày 01-02-2023 đến ngày 13-4-2023.
Giao bị cáo Đoàn Xuân L cho UBND xã Nam Phong, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.
Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại Điều 68, 92 của Luật Thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Toà án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
3. Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L mỗi bị cáo phải nộp 200.000đồng.
4. Báo các bị cáo Đoàn Quang T, Nguyễn Duy K, Đoàn Xuân L và Công ty CPTM Th Hà Nội có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án về tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp số 66/2023/HS-ST
Số hiệu: | 66/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Nam Định |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 10/07/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về