TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ DẦU MỘT, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 60/2024/HS-ST NGÀY 29/03/2024 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 29 tháng 3 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 10/2024/TLST-HS ngày 12 tháng 01 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 24/2024/QĐXXST-HS ngày 26/01/2024, Quyết định hoàn phiên tòa số 29/2024/HSST-QĐ ngày 16/02/2024, số 44/2024/HSST-QĐ ngày 15/3/2024 đối với bị cáo:
Họ và tên: Châu Văn B, sinh ngày 01/01/1989, tại tỉnh Bạc Liêu. Nơi ĐKHKTT: Ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: làm thuê; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Châu Văn L (chết) và Hồ Thị C; vợ: Lê Thị Diễm M, có 02 con (lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2021); tiền án, tiền sự: không; bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/8/2018 được trả tự do; ngày 06/4/2023 đầu thú và bị tạm giữ, tạm giam đến ngày 19/6/2023 thay thế bằng biện pháp bảo lĩnh; ngày 13/3/2024 bị bắt tạm giam cho đến nay; có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Văn D1 - Công tác tại Văn phòng L1, đoàn Luật sư thành phố H; có mặt.
Bị hại: Công ty Cổ phần T1. Địa chỉ: Lô A, đường Đ, khu công nghiệp Đ, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Người đại diện hợp pháp: Ông Võ Hoàng V, chức vụ: Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật; có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án;
1. Ông Bồ Xuân H, sinh năm 1986; nơi cư trú: Số A đường H, Tổ C, Khu phố H, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; có mặt.
2. Bà Châu Thị Diểm M1, sinh năm 1995; nơi cư trú: Ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long; có mặt.
Người làm chứng: Ông Đậu Văn N, ông Trần Nhựt T - đều vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Châu Văn B và Man Xuân N1 (sinh năm 1981, cư trú tại số A, khu A, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương) là nhân viên của Nhà máy T1, địa chỉ tại khu phố D, phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương (thuộc công ty cổ phần T1). Công việc của B là thủ kho vật tư, còn N1 là phụ trách dự án điện.
Khoảng tháng 5/2018 (không xác định được ngày cụ thể), Châu Văn B tiếp nhận các cuộn dây cáp điện dư được chuyển từ kho của Nhà máy T1, địa chỉ tại phường H, thành phố T, tỉnh Bình Dương về kho của Nhà máy T1 và người giao hàng là Man Xuân N1. Sau ngày nhập hàng khoảng 03 ngày, N1 đến gặp B nói “Số lượng cáp điện mà hôm bữa nhập vào kho với số lượng mua mới để thi công thì dư ra 01 (một) cuộn, mình lấy cuộn dư bán lấy tiền, mày tìm cách tiêu thụ đi”; B đồng ý nên đã đến Cửa hàng bán thiết bị Hùng Ngọc, địa chỉ tại số A, đường H, khu phố H, phường P, thành phố T do ông Bồ Xuân H cư trú tại địa chỉ trên làm chủ để liên hệ bán cuộn dây cáp điện thì anh H kêu chở hàng đến cửa hàng H2 để xem. Đến ngày 03/6/2018, B nhận được thông báo vào ngày 04/6/2018 sẽ nhận một lô dây cáp điện gồm 33 (ba mươi ba) cuộn dây cáp các loại có vòng cây bao quanh và 10 (mười) cuộn dây cáp loại không có vòng cây bao quanh từ Công ty TNHH C1, địa chỉ tại đường số H, Khu công nghiệp L, xã T, huyện L, tỉnh Đồng Nai giao nên B sử dụng điện thoại di động hiệu Vivo gắn số thuê bao 01644.628.5xx gọi đến số thuê bao 0961.137.8xx của N1 nói “Ngày mai bên Taihan giao hàng, anh sắp xếp người nhận hàng giùm em, còn phần tiêu thụ đoạn cáp thì để em”; N1 đồng ý.
Khoảng 14 giờ ngày 04/6/2018, Công ty TNHH C1 cho 02 (hai) xe tải chở các cuộn dây cáp điện đến giao cho Châu Văn B để nhập kho. Đối với xe thứ nhất B đà ký nhận 25 (hai mươi năm) cuộn dây cáp điện loại có vòng cây bao quanh và 10 (mười) cuộn dây cáp điện loại không có vòng cây bao quanh đến kho của Nhà máy T1. Khoảng 16 giờ cùng ngày 04/6/2018, xe tải thứ hai biển số 61C-292.6x do anh Đậu Văn N, sinh năm 1983, cư trú tại số F khu phố C, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương điều khiển chở 08 (tám) cuộn dây cáp điện loại có vòng cây bao quanh đến giao thì B nói “Anh điều khiển xe chạy ra ngoài cổng đợi đi giao hàng ở hai nơi”. Nghe vậy, anh N điện thoại hỏi ý kiến anh Trần Nhựt T, cư trú tại khu phố B, xã A, huyện L, tỉnh Đồng Nai (là người điều anh N chạy xe giao hàng cho Nhà máy T1) thì được anh T cho biết là cứ làm theo sự hướng dẫn của B, miễn ký nhận hàng đầy đủ về giao lại công ty là được. Lúc này, anh N nói nếu giao hàng ở hai nơi thì B phải chịu thêm tiền dầu số tiền là 1.000.000đ (một triệu đồng); B đồng ý. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày 04/6/2018, Bé điều khiển xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 64F1-270.87 chạy ra gặp anh N và kêu anh N điều khiển xe chạy theo Bé đến tiệm điện Hùng N2 bỏ lại 01 (một) cuộn dây cáp điện tại đây rồi kêu anh N điều khiển xe chạy về lại Nhà máy T1 3 đợi Bé chạy về nhận hàng. Lúc này, B đi vào tiệm điện Hùng N2 gặp anh H để bán cuộn dây cáp điện vừa bỏ xuống được số tiền là 260.000.000đ (hai trăm sáu mươi triệu đồng). Sau đó, B về Nhà máy T1 để ký nhận toàn bộ số hàng mà anh N chở đến giao. Khi nhận hàng xong, Bé điện thoại báo cho N1 biết việc cuộn dây cáp điện bán được số tiền 260.000.000đ (hai trăm sáu mươi triệu đồng) và hẹn gặp nhau ở chợ P để chia tiền mỗi người số tiền 130.000.000đ (một trăm ba mươi triệu đồng).
Đến ngày 09/8/2018, Ban Giám đốc Nhà máy T1 3 kiểm tra kho thì phát hiện thấy bị thiếu 01 (một) cuộn dây cáp điện loại 0.6/1kV CXV-Sc 3Cx150+1Cx70mm2 (độ dài 500 mét) nên yêu cầu B và N1 đến làm việc thì B và N1 đã khai nhận toàn bộ hành vi lấy cuộn dây cáp điện trên đem bán lấy tiền tiêu xài. Đến ngày 10/8/2018, anh Nguyễn Hữu H1 (Giám đốc Nhà máy T1) đà đến Công an phường H, thành phố T trình báo sự việc. Cùng ngày, Công an phường H hồ sơ vụ việc đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T giải quyết theo thẩm quyền.
Căn cứ Bản kết luận định giá tài sản số 86 ngày 24/5/2021 Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự thành phố T kết luận: 01 cuộn dây cáp điện loại 0.6/1kV CXV-Sc 3Cx150+1Cx70mm2 (độ dài 500 mét) trị giá: 452.020.800đ (bốn trăm năm mươi hai triệu, không trăm hai mươi ngàn, tám trăm đồng). Quá trình điều tra, Châu Văn B đà bồi thường số tiền 220.000.000 đồng, Man Xuân N1 đã bồi thường số tiền 212.020.800 đồng cho Công ty cổ phần T1, hiện công ty không có yêu cầu gì khác.
Ngoài ra, do Man Xuân N1 do đã chết vào ngày 12/4/2022 (theo trích lục khai tử số 67/TLKT ngày 19/4/2022 của Ủy ban nhân dân xã P, huyện T, tỉnh Bình Định) nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu M2 không đặt ra xem xét, giải quyết về trách nhiệm hình sự.
Đối với ông Bồ Xuân H: Quá trình điều tra, Châu Văn B khai nhận đã bán cuộn dây cáp điện trên cho anh H, tuy nhiên anh H khai không mua cuộn dây cáp điện của B. Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không thu giữ được cuộn dây cáp điện trên. Ngoài ra không còn tài liệu, chứng cứ nào khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không có căn cứ để xử lý đối với anh H.
Đối với điện thoại di động hiệu Vivo gắn số thuê bao 01644.628.5xx, quá trình điều tra xác định đây là công cụ B sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên, B khai nhận: Sau khi sự việc xảy ra, do không có tiền tiêu xài nên B đã bán điện thoại trên cho một người nam không rõ họ tên và địa chỉ cư trú. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không thu hồi được.
Đối với xe mô tô hiệu Yamaha Sirius, biển số 64F 1-270.87, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do chị Lê Thị Diễm M3, sinh năm 1995, cư trú tại ấp T, xã L, huyện T, tỉnh Vĩnh Long (là vợ của Châu Văn B) đứng tên trên Giấy chứng nhận đăng ký xe. Việc B lấy xe mô tô trên để thực hiện hành vi phạm tội chị M3 không biết. Do vậy, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T không đề cập xử lý đối với xe mô tô trên.
Cáo trạng số 30/CT-VKSTDM ngày 09/01/2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo Châu Văn B về tội “Tham ô tài sản” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa:
- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 353, điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Châu Văn B mức hình phạt từ 07 năm 06 tháng tù đến 08 năm 06 tháng tù.
Về trách nhiệm dân sự, biện pháp tư pháp: Không đề nghị giải quyết.
- Bị cáo, những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không có ý kiến tranh luận.
- Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Không có ý kiến về tội danh, điểm, khoản, điều luật truy tố đối với bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo khi quyết định hình phạt. Ngoài ra, hiện nay bị cáo là lao động chính của gia đình, 02 con nhỏ, hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng Điều 54 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo mức hình phạt thấp hơn quy định của điều luật mà Viện kiểm sát truy tố.
- Lời nói sau cùng: Bị cáo nhận thức được việc vi phạm pháp luật, xin giảm nhẹ hình phạt để có cơ hội cải tạo thành người công dân tốt, có điều kiện chăm sóc gia đình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên, về trình tự thủ tục, Cơ quan điều tra có sai sót, cụ thể: Ngày 21/12/2023 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố T có bản kết luận điều tra bổ sung vụ án hình sự số 51/BKL-ĐTTH nhưng lại không thực hiện thủ tục thông báo cho bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo quy định tại khoản 4 Điều 232 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Ngoài ra, ngày 24/5/2021 Hội đồng định giá thường xuyên trong tố tụng hình sự có kết luận định giá tài sản số 86/KLTS-TTHS nhưng lại không ban hành Thông báo kết luận định giá để tống đạt cho bị cáo, bị hại và người tham gia tố tụng là vi phạm khoản 2 Điều 222 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, không cần thiết phải điều tra lại vụ án.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản ghi lời khai của bị hại cùng những tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Châu Văn B là nhân viên của cổ phần thép T1 (theo Hợp đồng lao động CN2405/2016/HĐLD-NK ngày 28/9/2016 với chức vụ thủ kho), bản thân bị cáo là người có chức vụ và quyền hạn được quy định trong công ty (theo hợp đồng lao động) và đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn vị trí công việc của bản thân (theo bản mô tả công việc và tiêu chuẩn tuyển dụng) để cùng Man Xuân N1 chiếm đoạt 01 cuộn dây cáp điện loại 0.6/1kV CXV-Sc 3Cx150+1Cx70mm2 trị giá: 452.020.800đ (bốn trăm năm mươi hai triệu không trăm hai mươi nghìn tám trăm đồng) của công ty cổ phần T1. Do đó, hành vi mà bị cáo thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản” được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Dầu Một truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Đối với Man Xuân N1 đã chết vào ngày 12/4/2022 nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét về trách nhiệm hình sự. Đối với Bồ Xuân H, qua kết quả điều tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nhận thấy chưa đủ căn cứ xử lý H về hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có nên không đề cập xử lý.
[3] Hành vi mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của doanh nghiệp được pháp luật bảo vệ; gây mất trật tự, trị an tại địa phương nơi xảy ra vụ án. về nhận thức, bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vì tham lam mà bị cáo đã bất chấp sự trừng phạt của pháp luật, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà bị cáo đã thực hiện, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.
[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; đà tác động gia đình bồi thường số tiền chiếm đoạt cho bị hại đồng thời quá trình điều tra bị hại có đơn xin bãi nại cho bị cáo. Mặt khác, sau khi phạm tội bị cáo đã đầu thú. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
[6] Căn cứ nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp. Đối với ý kiến bào chữa của luật sư là có căn cứ chấp nhận một phần.
[7] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo cùng Man Xuân N1 đã bồi thường lại toàn bộ thiệt hại cho công ty cổ phần T1, hiện công ty không có yêu cầu gì khác nên không đề cập xử lý.
[8] Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Không có.
[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Châu Văn B phạm tội “Tham ô tài sản”.
2. Về hình phạt: Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 353; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Châu Văn B 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 13/3/2024 được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/8/2018 đến ngày 11/8/2018 và từ ngày 06/4/2023 đến ngày 19/6/2023.
3. Về trách nhiệm dân sự: Không đặt ra xem xem xét, giải quyết.
4. Về biện pháp tư pháp, xử lý vật chứng: Không có.
5. Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết công khai.
Bản án 60/2024/HS-ST về tội tham ô tài sản
Số hiệu: | 60/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 29/03/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về