TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N, TỈNH NINH THUẬN
BẢN ÁN 15/2024/HS-ST NGÀY 11/04/2024 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN
Ngày 11 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh N xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 04/2024/HSST ngày 21 tháng 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 14/2024/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 3 năm 2024 đối với bị cáo:
NGUYỄN TRỌNG TH, sinh năm: 1995 tại tỉnh K. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn T, xã Đ, huyện H, tỉnh Kon Tun; nghề nghiệp: Dược sĩ; trình độ văn hóa: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Trọng H và bà Trần Thị Q; có vợ và 01 con; tiền án: Không; tiền sự: Không; bị cáo bắt, tạm giữ từ ngày 26/12/2023, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện N, tỉnh N. (Có mặt)
- Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần dược phẩm FPT L; địa chỉ: 379-381 đường H, phường V, Quận 3, Thành Phố H.
- Người đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự: Chị Nguyễn Bạch Đ, sinh năm: 1994; Tổng Giám đốc Công ty cổ phần dược phẩm FPT L.
- Người đại diện theo uỷ quyền của nguyên đơn dân sự: Chị Nguyễn Lê Cẩm H, sinh năm: 1994; nơi cư trú: Thôn T, thị trấn M, huyện H, tỉnh B – Phó quản lý Nhà thuốc L thuộc thôn L, xã D, huyện N, tỉnh N. (Có mặt)
- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Chị Võ Thị Tuyết M, sinh năm: 1993; nơi cư trú: Khu phố 4, thị trấn P, huyện P, tỉnh N. (Có mặt)
- Người làm chứng: Chị Nguyễn Thị Phương Tr, sinh năm: 1995; nơi cư trú:
nơi cư trú: Thôn T, xã P, huyện N, tỉnh N. (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 22/12/2022, Nguyễn Trọng Th và Công ty Cổ phần Dược phẩm FPT L, trụ sở tại số 379-381 đường H, phường V, Quận 3, Thành Phố H (sau đây gọi tắt là Nhà thuốc L) có ký hợp đồng lao động số 181222.2/FRTLC-MT/PR4, loại hợp đồng xác định thời hạn 12 tháng, kể từ ngày 18/12/2022 đến ngày 17/12/2023, chức danh công việc là nhân viên bán thuốc. Khoảng tháng 06 năm 2023, Th được công ty L phân công nhiệm vụ bán hàng tại Nhà thuốc L 1204, có địa chỉ tại thôn L, xã D, huyện N, tỉnh N. Đến ngày 07/7/2023, Nguyễn Trọng Th được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng ca bán hàng (kiêm nhiệm) tại Nhà thuốc L 1204. Trưởng ca bán hàng có nhiệm vụ tổng kết số tiền thu được từ hoạt động kinh doanh của cửa hàng khi kết thúc ca làm việc và báo cáo quỹ của công ty; giữ chìa khóa két sắt của Nhà thuốc.
Ngày 16/7/2023, Nguyễn Trọng Th cùng Nguyễn Thị Phương Tr, sinh năm 1995, trú tại khu phố 4, phường Đ, thành phố P, tỉnh N, trực bán thuốc tại Nhà thuốc L 1206. Do cần tiền để trả nợ cá nhân nên Nguyễn Trọng Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Nhà thuốc L 1206. Khoảng 21 giờ ngày 16/7/2023, khi kết tiền bán thuốc trong hai ngày 15/7/2023 và ngày 16/7/2023 (do là ngày thứ Bảy và Chủ nhật nên cuối ngày không nộp tiền vào ngân hàng mà để toàn bộ số tiền trong két sắt của Nhà thuốc), Th vào kho mở két sắt lấy 29.233.000 đồng của Nhà thuốc L sau đó đón xe khách đi Thành Phố H và đã sử dụng toàn bộ số tiền nêu trên vào mục đích cá nhân. Sáng ngày 17/7/2023, Nguyễn Trọng Th nhắn tin lên nhóm Zalo của Nhà thuốc với nội dung xin lỗi vì đã lấy toàn bộ tiền bán thuốc của Nhà thuốc trong 02 ngày, đồng thời hứa sau 02 ngày nếu không hoàn trả sẽ đến Công an để đầu thú. Nhận được tin nhắn, chị Nguyễn Lê Cẩm H đã cùng nhân viên kiểm tra két sắt thì phát hiện trong két sắt chỉ còn lại số tiền 767.000 đồng mà Th bỏ vào lúc 21 giờ ngày 16/7/2023. Số tiền còn lại đã bị Th chiếm đoạt với tổng số tiền chiếm đoạt là 29.233.000 đồng (theo thống kê trên phần mềm bán thuốc là 30.000.000 đồng, bao gồm ngày 15/7/2023: 16.950.000 đồng và ngày 16/7/2023: 13.050.000 đồng, số tiền còn lại trong két sắt sau khi bị Thành chiếm đoạt là 767.000 đồng).
Tại bản Cáo trạng số: 10/CT-VKSTN ngày 19 tháng 02 năm 2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện N, tỉnh N đã truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Th về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện N giữ quyền công tố luận tội: Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Tham ô tài sản”, do đó Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:
Căn cứ khoản 1 Điều 353; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Khoản 1 Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Th phạm tội “Tham ô tài sản”, với mức án từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù.
Lời nói sau cùng: Tại phiên tòa, bị cáo biết hành vi của mình là sai trái vi phạm pháp luật nên mong Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:
Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như sau: Bị cáo Nguyễn Trọng Th là người có trách nhiệm, quyền hạn trong việc quản lý tài sản của doanh nghiệp được Công ty Cổ phần Dược phẩm FPT L bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng ca bán hàng tại Nhà thuốc L, địa chỉ tại thôn L, xã D, huyện N, tỉnh N. Vì tham lam, muốn có tiền tiêu xài cá nhân nên ngày 16/7/2023 sau khi kết thúc ca bán hàng, bị cáo Th đã lợi dụng nhiệm vụ Ca trưởng để mở két sắt của Nhà thuốc L chiếm đoạt số tiền 29.233.000đ (Hai mươi chín triệu hai trăm ba mươi ba nghìn đồng) để tiêu xài cá nhân.
Xét thấy hành vi nêu trên của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp nên Viện kiểm sát nhân dân huyện N truy tố bị cáo Nguyễn Trọng Th về tội “Tham ô tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 353 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo tự nguyện bồi thường dân sự; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người đại diện theo pháp của nguyên đơn dân sự xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.
Qua xem xét hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Nhằm đảm bảo được tình hình an ninh trật tự tại địa phương và tuyên truyền pháp luật nên phải xử phạt bị cáo một mức án thật nghiêm đối với loại tội phạm này. Vì vậy, cần phải cách ly bị cáo Nguyễn Trọng Th ra khỏi đời sống xã hội một thời gian là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung là phù hợp với quy định tại Điều 38 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, khi lượng hình cũng cần xem xét giảm nhẹ dưới khung hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định tại Điều 54 của Bộ luật hình sự.
Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Nguyễn Trọng Th tác động vợ tên Võ Thị Tuyết Mai thỏa thuận bồi thường cho Công ty cổ phần dược phẩm FPT L số tiền 29.233.000 đồng. Bà Nguyễn Thị Cẩm H – Đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự không yêu cầu bồi thường gì khác. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Tại phiên tòa, chị Võ Thị Tuyết M không yêu cầu bị cáo Nguyễn Trọng Th trả lại số tiền 29.233.000 đồng đã bồi thường cho nguyên đơn dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử không xét đến.
Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 353; điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54; Điều 38 của Bộ luật hình sự; Nghị quyết số: 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng Th phạm tội “Tham ô tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng Th 12 (Mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 26/12/2023.
Căn cứ vào khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội 14 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Buộc bị cáo Nguyễn Trọng Th phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo, nguyên đơn dân sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (Ngày 11/4/2024).
Bản án 15/2024/HS-ST về tội tham ô tài sản
Số hiệu: | 15/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ninh Sơn - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 11/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về