Bản án 02/2023/HS-ST về tội tham ô tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN – THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 10/01/2023 VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 01 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh mở phiên toà xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 339/2022/TLST-HS, ngày 15 tháng 11 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 418/2022/QĐXXST-HS ngày 27 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu P, sinh năm 1971, tại Quảng Ngãi; Hộ khẩu thường trú: Số L đường Bùi Tư Toàn, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Trưởng Khu phố L, phường A, quận Bình Tân; trình độ học vấn: 12/12; giới tính: Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1951 và bà Châu Thị B, sinh năm 1952; hoàn cảnh gia đình: Có vợ tên Huỳnh Thị U, sinh năm 1974 có 02 con lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2006; Tiền sự: Không, Tiền án: Không. Bị cáo bị bắt 01/12/2021 (Có mặt);

Bị hại:

Ủy ban nhân dân phường A, quận Bình Tân.

Đại diện hợp pháp: Bà Nguyễn Thị Bích T - Chức vụ: Phó Chủ tịch ;Trú tại: Số K, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt);

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan :

1 /Bà Tô Huỳnh Thanh T, sinh năm 1982; Trú tại: Số G đường C, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

2/ Bà Phạm Xuân H, sinh năm 1993; Trú tại: Số J đường H, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

3/ Ông Tô Hoàng G- Chủ Tịch Uỷ ban nhân dân phường A quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

4/ Bà Trần Thị Ngọc Đ, sinh năm 1980; Trú tại: Số F đường A, phường 10, quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

5/ Ông Nguyễn Thanh D, sinh năm 1977; Trú tại: Số M đường B, phường P, quận 01, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

6/ Ông Lại Hoàng V, sinh năm 1988; Trú tại: Số N đường A, phường A, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

7/ Nguyễn Thị M, sinh năm 1977; Trú tại: Số X đường S, phường 16, quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt);

8/ Bà Lê Thị Ánh T, sinh năm 1984; Trú tại: Số H đường P, phường Bình Trị Đông, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh(Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Hữu P là Trưởng Khu phố 4, phường A, quận Bình Tân nhiệm kỳ 2020-2025 theo Quyết định số 3200/QĐ-UBND ngày 24/6/2020 của Ủy ban nhân dân phường A và là Chi ủy viên Chi bộ Khu phố 4, Đảng bộ phường A, quận Bình Tân. P thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại khoản 4 Điều 4 Quyết định số 24/2017/QĐ-UBND ngày 25/4/2017 của Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của ấp, khu phố, tổ nhân dân, tổ dân phố.

Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid - 19, xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của dịch là bệnh truyền nhiễm nhóm A, nguy cơ ở mức độ đại dịch toàn cầu; địa điểm và quy mô xảy ra dịch trên phạm vi toàn quốc.

Ngày 25/6/2021, Hội đồng nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND về một số chế độ, chính sách đặc thù phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid - 19, hỗ trợ người dân bị tác động bởi dịch Covid - 19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 06/8/2021, Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ban hành Công văn số 2627/UBND-VX về việc hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ lao động nghèo và lao động tự do gặp khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid- 19 (đợt 2).

Ngày 30/8/2021, Ủy ban nhân dân quận Bình Tân ban hành Thông báo số 1001/TB-UBND (kèm theo danh sách 10.866 người lao động) về việc phê duyệt danh sách hộ lao động nghèo gặp khó khăn do tác động của dịch bệnh Covid-19 phường A.

Ngày 30/8/2021, Ủy ban nhân dân phường phường A có Quyết định số 6205/QĐ-UBND về hỗ trợ lao động có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19 trên địa bàn phường A, xác định mỗi người có tên trong danh sách được nhận trợ cấp số tiền 1.500.000 đồng.

Thực hiện Thông báo số 1001/TB-UBND của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân và Quyết định số 6205/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân phường A, Ủy ban nhân dân phường A đã triển khai giao các Trưởng khu phố nhận danh sách hỗ trợ từ bộ phận Lao động thương binh xã hội Phường và tiền từ bộ phận Thủ quỹ Phường, sau đó phân công lực lượng chi tiền theo danh sách được duyệt. Sau khi chi tiền xong, Trưởng khu phố sẽ quyết toán danh sách và kinh phí thực chi với bộ phận Lao động thương binh xã hội Phường. Nguyễn Hữu P đã trực tiếp nhận số tiền 3.577.500.000 đồng (Ba tỷ năm trăm bảy mươi bảy triệu năm trăm ngàn đồng) kèm danh sách nhận tiền gồm 2385 trường hợp từ chị Phạm Thị Xuân H - Cán bộ Thủ quỹ Ủy ban nhân dân phường A. P thành lập các tổ tình nguyện hỗ trợ phát tiền trong khoảng thời gian từ ngày 01/9/2021 đến 13/9/2021 do anh Nguyễn Thanh D, anh Lại H V, chị Nguyễn Thị M, chị Trần Thị Hồng Đ và chị Nguyễn Thị H làm tổ trưởng tổ phát tiền. Các Tổ trưởng trên tiến hành nhận tiền từ Nguyễn Hữu P và triển khai phát tiền cho người dân theo danh sách mà P đưa, khi phát phải kiểm tra con người, chứng minh nhân dân, cho ký nhận vào cột ký nhận, không cho nhận thay, nhận dùm, các trường hợp không phát được tiền thì Tổ trưởng ký bàn giao tiền lại cho P. Trong khoảng thời gian từ ngày 01/09/2021 đến cuối tháng 09/2021, trong khi tập hợp danh sách và thống kê tiền để thanh quyết toán với Ủy ban nhân dân phường A, Nguyễn Hữu P đã có hành vi nhiều lần giả chữ ký, chữ viết để ký nhận tiền và chiếm đoạt số tiền 21.000.000 đồng của 14 trường hợp có tên trong danh sách được duyệt nhưng không thực tế cư trú hoặc không có mặt tại địa phương, mục đích để tiêu xài cá nhân. Sau đó, P nộp danh sách nhận tiền và kinh phí thực chi cho chị Tô Huỳnh Thanh T - Cán bộ lao động thương binh và xã hội phường A để làm thủ tục quyết toán theo quy định.

Qua nguồn tin phản ánh của người dân, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân tiến hành rà soát việc thực hiện chính sách hỗ trợ người lao động đang gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 trên địa bàn quận Bình Tân và danh sách được hưởng hỗ trợ theo Quyết định số 1001/QĐ-UBND ngày 30/8/2021 của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân. Qua đó, Cơ quan điều tra phát hiện Nguyễn Hữu P, giữ chức vụ Trưởng Khu phố Lphường A là người trực tiếp nhận tiền, chỉ đạo phát tiền tại Khu phố Lvà nhận lại tiền hỗ trợ không phát được cho người lao động từ các Tổ phát tiền để tập hợp quyết toán với Ủy ban nhân dân phường theo danh sách đã được phê duyệt, nhưng P đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao giả chữ ký, chữ viết của 14 (mười bốn) trường hợp theo quy định phải nộp trả lại Ủy ban nhân dân phường A gồm: Giang Cẩm T, Nguyễn Minh T, Đặng Thị Mỹ L, Huỳnh Hữu Đ, Nguyễn Hải Đ, Thái Kim Ng, Phạm Văn P, Nguyễn Phan Thùy T, Phạm Văn S, Trịnh Thị Ngọc L, Tăng Thế H, Phạm Đình Q, Trần Thị Dật P, Trần Thanh Vũ. P đã có hành vi giả chữ ký để ký nhận và tính vào danh sách thực tế cần phải quyết toán, sau đó quyết toán lại với Ủy ban nhân dân phường A, chiếm đoạt số tiền 21.000.000 đồng sử dụng vào mục đích tiêu xài cá nhân.

Tại Cơ quan điều tra, P thừa nhận hành vi đã giả chữ ký, chữ viết của 14 người để chiếm đoạt số tiền 21.000.000 đồng và tự nguyện giao nộp lại số tiền trên để khắc phục hậu quả.

- Vật chứng thu giữ, tạm giữ của vụ án:

+ 28.500.000 đồng do P giao nộp để khắc phục hậu quả. Quá trình điều tra đã xác định số tiền mà P chiếm đoạt là 21.000.000 đồng.

+ 01 (một) cuốn sổ có bìa màu xanh của Nguyễn Hữu P ghi nhận việc giao tiền và nhận tiền giữa P và các tổ trưởng tổ phát tiền.

Cơ quan điều tra đã chuyển tiền đến Kho bạc Nhà nước và chuyển các vật chứng còn lại đến Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân chờ xử lý.

Tại Bản Kết luận giám định số 1727/KLGĐ-TT ngày 31/3/2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận:

“Chữ viết gồm: “Minh Tình” số thứ tự 66, “Huỳnh Minh Đức” số thứ tự 417, “Thái Kim Ngân” số thứ tự 539, “Trịnh Ngọc Lan” số thứ tự 639 dưới mục “Ký nhận và ghi rõ họ tên” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết tương ứng của Nguyễn Minh Tình, Huỳnh Hữu Đức, Thái Kim Ngân, trịnh Thị Ngọc Lan trên 06 (sáu) tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M3, M5, M7, M12, M14 không phải do cùng một người viết ra.

- Chữ ký dạng chữ viết “Trân” số thứ tự 934 dưới mục “Ký nhận và ghi rõ họ tên” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký dạng chữ viết tên “Trân” trên tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M10 không phải do cùng một người viết ra.

- Không đủ cơ sở kết luận chữ viết họ và tên “Phạm Văn P” số thứ tự 554 dưới mục “Ký nhận và ghi rõ họ tên” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ viết của Phạm Văn P trên tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M9 có phải do cùng một người viết ra hay không.

- Không đủ cơ sở kết luận chữ viết họ và tên Giang Cẩm T số thứ tự 02, Tăng Thế H, số thứ tự 42, Đặng Thị Mỹ L, số thứ tự 413, nguyễn Hải Đ, số thứ tự 503, Phạm Đình Q số thứ tự 507, Phạm Thanh S số thứ tự 544 dưới mục “Ký nhận và ghi rõ họ tên” trên tài liệu cần giám định ký hiệu A so với chữ ký tương ứng của Giang Cẩm T, Tăng Thế H, Đặng Thị Mỹ L, Nguyễn Hải Đ, Phạm Đình Q, Phạm Thanh S trên 06 (sáu) tài liệu dùng làm mẫu so sánh ký hiệu M1, M2, M4, M6, M8, M11 có phải do cùng một người ký ra hay không.” Về trách nhiệm dân sự: Bà Nguyễn Thị Bích Tuyền - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A, đại diện Ủy ban phường yêu cầu bị cáo P trả lại số tiền 21.000.000 đồng và xử lý bị cáo P theo đúng quy định của pháp luật.

Tại Cơ quan điều tra Công an quận Bình Tân, bị cáo Nguyễn Hữu P đã khai nhận hành vi phạm tội như trên, phù hợp lời khai của những người liên quan, kết quả xác minh và các tài liệu khác có tại hồ sơ.

Tại bản cáo trạng số 240/QĐ-VKS, ngày 03/11/2022 của Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân đã truy tố Nguyễn Hữu P về tội “Tham ô tài sản” theo điểm c, đ Khoản 2 Điều 353 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như kết luận điều tra và cáo trạng truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân sau khi phân tích nội dung vụ án, phân tích chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, các tình tiết định tội, định khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự thì vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c, đ Khoản 2 Điều 353, Điều 38, điểm b, s ,v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 54 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng mức hình phạt đối bị cáo Nguyễn Hữu P từ 06 năm đến 07 năm tù. Miễn phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 46, điểm a Khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và điểm a Khoản 2 Điều 106, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu huỷ 01 cuốn sổ màu xanh; Trả lại cho bị cáo số tiền 7.500.000 đồng và trả lại cho Uỷ ban nhân dân phường A quận Bình Tân số tiền 21.000.000 đồng.

Căn cứ vào những chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; kết quả tranh luận tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, khách quan, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra truy tố bị cáo Điều tra viên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân được phân công điều tra giải quyết vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Căn cứ diễn biến tại phiên tòa, thông qua phần xét hỏi, tranh luận, nhận thấy lời khai, chứng cứ phạm tội phù hợp với tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của điều tra viên, kiểm sát viên, do đó các hành vi, quyết định tố tụng của họ đã thực hiện phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với nhau, với lời khai của bị hại, tang vật vụ án được thu giữ, phù hợp với bản kết luận điều tra của Cơ quan Cảnh sát điều tra, bản cáo trạng của Viện kiểm sát, các tài liệu chứng cứ khác thu được trong hồ sơ vụ án. Do đó Hội đồng xét xử thấy có đủ cơ sở pháp lý để kết luận bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Tham ô tài sản” tội danh và hình phạt được quy định tại Điều 353 của Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

[3] Xét hành vi phạm tội của bị cáo đã thực hiện là cố ý và nguy hiểm cho xã hội, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài phục vụ nhu cầu cá nhân mà không phải thông qua lao động chân chính, bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội rất táo bạo và liều lĩnh, bất chấp hậu quả xảy ra, qua đó thể hiện ý thức bị cáo rất xem thường pháp luật. Bị cáo lợi dụng chức vụ ,quyền hạn của mình được giao trong việc nhận tiền từ quỹ hỗ trợ của phường A để phát tiền cho người lao động và hộ gia đình thuộc diện khó khăn do bị ảnh hưởng của dịch Covid - 19 trên địa bàn Khu phố 4, phường A quận Bình Tân. Bị cáo đã trực tiếp giả chữ ký, chữ viết ký vào danh sách ở vị trí nhận tiền của 14 (mười bốn) trường hợp gồm: Giang Cẩm T, Nguyễn Minh Tình, Đặng Thị Mỹ L, Huỳnh Hữu Đức, Nguyễn Hải Đăng, Thái Kim Ngân, Phạm Văn P, Nguyễn Phan Thùy Trân, Phạm Văn S, Trịnh Thị Ngọc Lan, Tăng Thế H, Phạm Đình Q, Trần Thị Dật Phấn, Trần Thanh Vũ, là những người trường hợp có tên trong danh sách được duyệt nhưng không thực tế cư trú hoặc không có mặt trên địa bàn Khu phố Lvào thời điểm phát tiền, mỗi trường hợp là 1.500.000 đồng. Bằng thủ đoạn trên, từ ngày 13/9/2022 đến cuối tháng 9/2022, bị cáo đã nhiều lần giả chữ ký của tổng cộng 14 trường hợp và chiếm đoạt tổng số tiền là 21.000.000 đồng của quỹ hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid - 19 thuộc Ủy ban nhân dân phường A quản lý, mục đích chiếm đoạt để tiêu xài cá nhân, không thực hiện việc quyết toán trả lại tiền của những trường hợp không phát được tiền cho Ủy ban nhân dân phường A theo đúng quy định.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến quan hệ sở hữu và hoạt động của Cơ quan Nhà nước trong hoạt động quản lý tài chính, gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước, làm ảnh hưởng tiêu cực nhiều mặt đến đời sống xã hội, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Chính quyền địa phương. Hiện nay tội phạm tham nhũng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ lợi ích nhóm sân sau, nguy cơ đe doạ đến sự tồn vong của Đảng và chế độ nên cần phải xử lý nghiêm. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân quận Bình Tân căn cứ điểm c , đ Khoản 2 Điều 353 Bộ luật hình sự 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017 để truy tố bị cáo là có căn cứ.

[4] Xét về nhân thân và tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét bị cáo có nhân thân tốt, bản thân chưa có tiền án, tiền sự. Tại cơ quan điều tra và qua diễn biến tại phiên toà hôm nay bị cáo thật thà khai báo thành khẩn nhận tội, đã tích cực khắc phục hậu quả. Quá trình công tác tại địa phương từ năm 2010 cho đến nay, với vai trò Trưởng Khu phố 4, bị cáo P đã tích cực trong công tác, mang lại nhiều kết quả cao cho Khu phố 4, phường A, quận Bình Tân được Ủy ban nhân dân phường A tặng giấy khen hoàn thành xuất sắc trong quá trình thực hiện nhiệm vụ cho người dân trên địa bàn Khu phố 4, được Ủy ban mặt trận tổ quốc Việt Nam Thành phố tặng Bằng khen trong công tác Mặt trận tổ quốc giai đoạn 2010-2015; bị cáo nhiều năm liền là Đảng viên xuất sắc. Gia đình bị cáo có ông ngoại Châu Khánh Lộc được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng Huy chương kháng chiến hạng nhì; Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s, v Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung quy định tại Khoản 5 Điều 353 Bộ luật hình sự Hội đồng xét xử xét tính chất của vụ án nên cấm bị cáo đảm nhiệm chức vụ trong thời hạn một năm tính từ ngày chấp hành xong hình phạt tù.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đối với số tiền 28.500.000 đồng bị cáo P đã nộp khắc phục hậu quả. Tại phiên toà bị cáo khai do nhớ nhầm nên nộp số tiền khắc phục hậu quả lớn hơn số tiền mà bị cáo đã chiếm đoạt và xin nhận lại số tiền 7.500.000 đồng.

Đối với số tiền 21.000.000 đồng mà bị cáo chiếm đoạt của Uỷ ban phường A Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho Ủy ban nhân dân phường A quận Bình Tân số tiền 21.000.000 đồng để nộp lại vào ngân sách Nhà nước. Đối với số tiền 7.500.000 đồng còn lại Hội đồng xét xử quyết định trả lại cho bị cáo.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với 01 cuốn sổ bìa màu xanh là vật có liên quan đến vụ án Hội đồng xét xử quyết định tịch thu tiêu huỷ.

Đối với bà Phạm Thị Xuân H - Cán bộ Thủ quỹ Ủy ban nhân dân phường A, bà Lê Thị Ánh T - Cán bộ kế toán Ủy ban nhân dân phường A và bà Tô Huỳnh Thanh T - Cán bộ lao động thương binh và xã hội phường A thực hiện bàn giao tiền hỗ trợ cho bị cáo P theo chỉ đạo của Chủ tịch Ủy ban phường và thanh quyết toán tiền theo quy định, không biết bị cáo P giả chữ ký, chữ viết để chiếm đoạt số tiền 21.000.000 đồng nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân không xử lý là có căn cứ.

Đối với ông Tô Hoàng G - Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường A không biết và không chỉ đạo bị cáo P giả chữ ký, chữ viết để chiếm đoạt tiền hỗ trợ người lao động bị ảnh hưởng của dịch Covid - 19 nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân không xử lý là có căn cứ.

Qua quá trình điều tra, Ủy ban nhân dân phường A đã cung cấp tài liệu cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân liên quan đến việc chi tiền hỗ trợ cho 2.463 người nhận tiền không có tên trong danh sách được phê duyệt theo Thông báo số 1001/TB-UBND ngày 30/8/2021 (kèm theo danh sách 10.866 người lao động có hoàn cảnh khó khăn do ảnh hưởng bởi dịch Covid-19) của Ủy ban nhân dân quận Bình Tân. Do 14 trường hợp P giả chữ ký để chiếm đoạt tài sản không liên quan đến hành vi chi ngoài danh sách được phê duyệt theo Thông báo 1001/TB-UBND của Ủy ban nhân dân phường A nên ngày 04/10/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận Bình Tân đã có Quyết định tách hành vi để tiếp tục xác minh, làm rõ theo quy định của pháp luật là có căn cứ.

[8] Về án phí hình sự sơ thẩm : Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hữu P phạm tội “Tham ô tài sản”.

Căn cứ điểm c, đ Khoản 2 Điều 353; điểm b, s, v, Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu P 07(bảy) năm 06(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 01/12/2021.

Áp dụng Khoản 5 Điều 353 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.

Cấm bị cáo đảm nhiệm chức vụ trong thời hạn một năm tính từ ngày bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

2.Về xử lý vật chứng : Căn cứ Điều 46, Điều 47, Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017; Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ 01 cuốn sổ bìa màu xanh; Trả lại cho Ủy ban nhân dân phường A số tiền 21.000.000 đồng và trả lại cho bị cáo số tiền 7.500.000 đồng ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật (Theo phiếu nhập kho vật chứng số NK23/23TAM ngày 02/11/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân và giấy nộp tiền vào kho bạc Nhà nước ngày 20/6/2022)

3. Về án phí: Căn cứ Khoản 2 Điều 135, Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Luật phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc Hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng, nộp tại cơ quan Thi hành án dân sự có thẩm quyền.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

26
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2023/HS-ST về tội tham ô tài sản

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;