Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 08/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NÔNG SƠN, TỈNH QUẢNG NAM

BẢN ÁN 08/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 31 tháng 3 năm 2022, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 05/2022/TLST- HS ngày 24/01/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 08/2022/QĐXXST- HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo sau:

1. Đỗ Thanh K, sinh ngày 21 tháng 9 năm 1982 tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn PB, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: nông: dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 12/12; con ông Đỗ Thành P, sinh năm 1964 và bà Phan Thị V, sinh năm 1964; Gia đình bị cáo có 05 anh em, bị cáo là con lớn nhất trong gia đình; vợ: Lê Thị M, sinh năm 1981 (đã ly hôn); bị cáo có một con sinh năm 2017. Tiền án: không; tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Nguyễn Hà D, sinh ngày 20 tháng 02 năm 1998 tại huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: thôn TN, xã QT, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam; nghề nghiệp: thợ in: dân tộc: kinh; tôn giáo: không; trình độ học vấn: 08/12; con ông Nguyễn T, sinh năm 1960 và bà Phùng Thị P, sinh năm 1969; Gia đình bị cáo có 04 anh chị em, bị cáo là con nhỏ nhất trong gia đình; bị cáo chưa có vợ con. Tiền án: không; tiền sự: Không.

Bị cáo đang bị tạm giam. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Đặng Ngọc T, sinh năm 1999;

Trú tại: Thôn TN, xã QT, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Anh Trương Hoàng V, sinh năm 1996;

Trú tại: Thôn TP, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Chị Đỗ Thị Hoài M, sinh năm 1983;

Trú tại: Thôn PB, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

* Có mặt tạo phiên tòa.

+ Anh Phan Văn V, sinh năm 1995;

Trú tại: Thôn TN, xã QT, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Anh Nguyễn Huỳnh Đ, sinh năm 1996;

Trú tại: Thôn LĐ, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Chị Phan Thị Thu H, sinh năm 1994;

Trú tại: Thôn LC, xã BD, huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam.

+ Bà Phùng Thị T, sinh năm 1967;

Trú tại: Thôn BA, xã SV, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

+ Chị Đặng Thị Kim T, sinh năm 1998;

Trú tại: Thôn LĐ, xã QL, huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam.

* Vắng mặt tại phiên tòa không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào trưa ngày 08/9/2021, bị cáo Đỗ Thanh K đến cầu Giao Thủy, huyện Đại Lộc mua 800.000 đồng ma túy (loại ma túy đá) của 01 người không rõ nhân thân lai lịch mang về nhà bà Phùng Thị T do bị cáo K thuê để ở cùng với chị Phan Thị Thu H. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, khi đến đoạn đường thuộc thôn TN, xã QT thì bị cáo K gặp bị cáo Nguyễn Hà D; tại đây K hỏi D “có nồi không” (nồi tức là dụng cụ sử dụng ma túy), D trả lời “không có”, K nói “rứa xíu nữa vào nhà anh chơi” (tức là sử dụng ma túy). Về đến nhà trọ, bị cáo K điện thoại cho bị cáo D nói “xíu vào mua bình ga mini” (với mục đích đốt ống thủy tinh dùng làm dụng cụ sử dụng ma túy) thì D đồng ý. Sau đó bị cáo K điện thoại cho Đ đến phòng trọ của K để sử dụng ma túy. Khi đi đến nhà bị cáo K, bị cáo D rủ theo Đặng Ngọc T với mục đích cùng sử dụng ma túy. Trên đường đi phòng trọ của K, bị cáo D mua theo 01 bình ga mini và 03 chai nước trà xanh O độ. Đến nhà bị cáo K thì bị cáo D đưa bình ga mini và 01 bật lửa cho K, bị cáo K dùng bình ga đốt nóng và uốn cong ống thủy tinh (do K mua ma túy kèm theo ống thủy tinh để sử dụng). Sau đó bị cáo K đưa ống thủy tinh cho D, bị cáo D lấy vỏ chai nước O độ đục hai lỗ ở nắp chai, dùng ống thủy tinh và 01 ống hút nhựa gắn vào 02 lỗ này rồi đổ vào 2/3 chai nước lọc để làm dụng cụ sử dụng ma túy. Tiếp đó, bị cáo K lấy ma túy bỏ vào ống thủy tinh, bị cáo D dùng bật lửa đốt ống thủy tinh cho nóng lên để sử dụng ma túy. Sau khi đốt xong thì 05 đối tượng, gồm: bị cáo K, bị cáo D và H, T, Đ cùng sử dụng. Sau khi sử dụng xong bị cáo D chia số ma túy còn lại thành 03 bịch rồi hàn kín các cạnh và đưa lại cho bị cáo K cất, sau đó tất cả đi về. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, tổ công tác của Công an huyện Nông Sơn phối hợp với Công an xã SV kiểm tra hành chính tại chỗ ở của bị cáo K thì phát hiện có các đối tượng K, H đang trú tại đây và tạm giữ bộ dụng cụ sử dụng ma túy, 03 bịch ni lông kích thước 01cm x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng (nghi là ma túy đá). Sau khi chở T về thì bị cáo D gặp Phan Văn V, V nhờ D mua giúp 400.000 đồng ma túy. Khi lực lượng Công an đang lập biên bản làm việc thì bị cáo D tiếp tục đến nơi ở của bị cáo K. Tiến hành test nhanh các đối tượng K, H, D, T và Đ thì tất cả đều dương tính với ma túy.

* Kết quả giám định: Tại Bản Kết luận giám định số 140/PC09 ngày 13/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam kết luận: Chất rắn dạng tinh thể gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng là 0,594gam.

Cáo trạng số 05/CT-VKSNS ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam truy tố bị cáo Đỗ Thanh K về các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 và đối với bị cáo Nguyễn Hà D về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015.

* Vật chứng thu giữ trong vụ án:

Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Sơn đã thu giữ gồm: Ba bịch ni lông kích thước 01cm x 03cm bên trong có chứa tinh thể màu trắng; hai túi ni lông đã cắt phần đuôi; một ống hút nhựa; 01 ống thủy tinh hình chữ L; 01 chai O độ (nắp chai có đục hai lỗ hình tròn); một điện thoại Nokia màu đen với sim số 0342607845; một xe môtô biển kiểm soát 92Y1-022.55; một xe mô tô biển kiểm soát 73N5-2681; một điện thoại di động hiệu Samsung màu nâu (không có thẻ sim); một bình ga mini màu vàng xanh, trên vỏ có chữ “Peace World” và số tiền: 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

- Quá trình điều tra Cơ quan CSĐT Công an huyện Nông Sơn đã trả lại một xe môtô biển kiểm soát 92Y1-022.55 cho chủ sở hữu là ông Đặng Ngọc T.

Về tình tiết liên quan đến vụ án:

- Bị cáo Đỗ Thanh K khai nhận đã mua ma túy của một người tại huyện Đại Lộc nhưng không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ.

- Đối với bà Phùng Thị T cho Đỗ Thanh K thuê nhà để ở, việc K sử dụng nhà của bà T tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bà T không biết, nên không xem xét xử lý đối với bà T.

- Đối với Phan Thị Thu H, Đặng Ngọc T và Đ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện đã tách hồ sơ chuyển cho Công an huyện Nông Sơn xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định.

- Tại cơ quan điều tra Đỗ Thanh K khai nhận số tiền 800.000 đồng mua ma túy là của Nguyễn Hà D góp 500.000 đồng, Đ góp 200.000 đồng và của K 100.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành lấy lời khai của Đ và D và tiến hành đối chất giữa K với Đ và D nhưng cả hai không thừa nhận có chung tiền mua ma túy. Cơ quan điều tra đã tiến hành các biện pháp điều tra nhưng không có căn cứ kết luận hành vi vi phạm của Đ và D nên Cơ quan CSĐT đã tách hồ sơ tiếp tục xác minh xử lý sau.

* Về xử lý vật chứng: Đề nghị HĐXX căn cứ vào Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật hình sự xử, tuyên: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 47 Bộ luật Hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại Nokia màu đen với sim số 0342607845 của Nguyễn Hà D, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu nâu (không có thẻ sim) của Đỗ Thanh K và số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam (bên trong có chứa 0,376g ma túy còn lại sau giám định); 02 (hai) túi ni lông đã cắt phần đuôi; 01 (một) ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh hình chữ L; 01 (một) chai O độ (nắp chai có đục hai lỗ hình tròn); 01 (một) bình ga mini màu vàng xanh, trên vỏ có chữ “Peace World” - Trả lại 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 73N5-2681 cho chủ sở hữu là chị Đỗ Thị Hoài M.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố tại Cáo trạng số 05/CT-VKSNS ngày 24 tháng 01 năm 2022 đối với các bị cáo Đỗ Thanh K và Nguyễn Hà D về tội:“Tố chức sử dụng trái phép chất ma túy” và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự xử phạt mỗi bị cáo 5 năm đến 6 năm tù.

Riêng đối với bị cáo Đỗ Thanh K còn căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt từ 01 năm đến 01 năm 6 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt, bị cáo Đỗ Thanh K phải chấp hành hình phạt chung là 06 năm đến 07 năm 6 tháng tù.

Các bị cáo không bào chữa gì, nhận tội và xin được giảm nhẹ hình phạt. Những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan mong HĐXX xem xét hoàn cảnh gia đình và chiếu cố, giảm nhẹ hình phạt để bị cáo có điều kiện chăm sóc gia đình.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn D chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1].Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về nội dung: Xét lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với thời gian, địa điểm, vật chứng thu thập được, lời khai những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và các tài liệu, chứng cứ khác có tại hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở khẳng định: Vào ngày 08/9/2021,bị cáo Đỗ Thanh K đến cầu Giao Thủy, huyện Đại Lộc mua 800.000 đồng ma túy (loại ma túy đá) của 01 người không rõ nhân thân lai lịch mang về nhà trọ tại thôn BA, xã SV, huyện Nông Sơn. Đến khoảng 17 giờ cùng ngày, bị cáo K tổ chức cho 05 đối tượng, gồm: K, D, T, Đ và Phan Thị Thu H cùng sử dụng. Số ma túy còn lại bị cáo D chia số ma túy còn lại thành 03 bịch rồi hàn kín các cạnh và đưa lại cho bị cáo K cất giữ. Đến khoảng 21 giờ 00 phút cùng ngày, tổ công tác của Công an huyện Nông Sơn phối hợp với Công an xã SV kiểm tra hành chính tại chỗ ở của bị cáo K thì phát hiện tạm giữ một bộ dụng cụ sử dụng ma túy và 0,594 gam ma túy, loại Methamphetamine.

Với hành vi nêu trên HĐXX đủ sơ sở kết luận: Bị cáo Đỗ Thanh K phạm các tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015 và đối với bị cáo Nguyễn Hà D về tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự năm 2015. Do vậy, cáo trạng số 05/CT-VKSNS ngày 24 tháng 01 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam và quan điểm luận tội của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3]. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án: Bị cáo Đỗ Thanh K là người chủ động mua ma túy và rủ bị cáo Nguyễn Hà D, anh Đ đến phòng trọ để sử dụng ma túy; còn bị cáo D là người rủ anh Đặng Ngọc T, là người trực tiến mua bình ga mini và tích cực cùng với bị cáo Đỗ Thành K chuẩn bị công cụ, phương tiện để về tội “Tổ chức sử dụng ma túy” nên hai bị cáo có vai trò ngang nhau cần em xét xử phạt ngang nhau là phù hợp.

Đây là vụ án có nhiều đối tượng tham gia, nhưng tự phát, không có sự trao đổi bàn bạc, phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể, nên xác định là đồng phạm giản đơn. Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa không xác định được các bị cáo có thu nhập gì từ việc tàng trữ trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo. Do đó, ý kiến của Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nông Sơn về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt, xử lý vật chứng là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[4]. Xét tính chất vụ án và hành vi phạm tội của các bị cáo thì thấy: Tính chất vụ án là rất nghiêm trọng. Khi thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy các bị cáo là người đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi với lỗi cố ý, chất ma túy mà các bị cáo tổ chức sử dụng là loại Methamphetamine là chất ma túy bị nghiêm cấm tổ chức sử dụng trái phép; Riêng bị cáo Đỗ Thanh K ngoài hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, bị cáo Đỗ Thanh K còn có hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương, sử dụng ma túy trái phép là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự cho các bị cáo Đỗ Thành K và Nguyễn Hà D về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”; đối với Đỗ Thanh K còn áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” xử phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo và cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, cải tạo đối với các bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung.

[4]. Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, hoàn cảnh gia đình của bị cáo thì thấy: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng và không có tiền án, tiền sự. Các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: thành khẩn khai báo, thật sự ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là hai tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với Đỗ Thanh K, có bác ruột Đỗ Hoàng O được Nhà nước công nhận là Liệt sỹ; còn Nguyễn Hà D có thời gian tham gia nghĩa vụ quân sự và có bác ruột Nguyễn Th được Nhà nước công nhận là Liệt sỹ nên 2 bị cáo này được xem xét áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cho bị cáo.

Do các bị cáo có 2 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s ở khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử sơ thẩm áp dụng khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự xử bị cáo dưới khung hình phạt liền kề về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” khi xem xét lượng hình đối với các bị cáo.

[5]. Về xử lý vật chứng và các vấn đề liên quan: Xét thấy những vật chứng sau là công cụ, phương tiện, vật phạm pháp nên HĐXX căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự tuyên:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước một điện thoại Nokia màu đen với sim số 0342607845 của Nguyễn Hà D, một điện thoại di động hiệu Samsung màu nâu (không có thẻ sim) của Đỗ Thanh K và số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

- Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam (bên trong có chứa 0,376g ma túy còn lại sau giám định); 02 (hai) túi ni lông đã cắt phần đuôi; một ống hút nhựa; 01 (một) ống thủy tinh hình chữ L; một chai O độ (nắp chai có đục hai lỗ hình tròn); 01 (một) bình ga mini màu vàng xanh, trên vỏ có chữ “Peace World” Đối với xe mô tô biển kiểm soát 73N5-2681 của chị Đỗ Thị Hoài M là chủ sở hữu. Chiếc xe nay bị cáo mượn để chở hàng vải cho chị M và chị M không biết lấy xe để đi mua ma túy nên căn cứ khoản 2 Điều 47 tuyên trả lại chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp.

[6]. Xét các tình tiết liên quan đến vụ án:

- Đối với Đỗ Thanh K trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa khai nhận: Bị cáo đã mua ma túy của một người tại huyện Đại Lộc nhưng không biết rõ họ tên, tuổi, địa chỉ của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nông Sơn, tỉnh Quảng Nam không có căn cứ để xác minh, điều tra làm rõ để xử lý sau này nên HĐXX không đề cập.

- Đối với bà Phùng Thị T cho Đỗ Thanh K thuê nhà để ở, việc K sử dụng nhà của bà T tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bà T không biết, nên không xem xét với bà T.

- Đối với Phan Thị Thu H, Đặng Ngọc T và Đ có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện đã tách hồ sơ chuyển cho Công an huyện Nông Sơn xử phạt vi phạm hành chính theo đúng quy định nên HĐXX không đề cập.

[7]. Xét đề nghị áp dụng pháp luật, mức hình phạt và các vấn đề khác của vị đại D Viện kiểm sát phù hợp nên chấp nhận.

[8]. Các bị cáo Đỗ Thanh K và Nguyễn Hà D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Đỗ Thanh K phạm tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy và tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Bị cáo Nguyễn Hà D phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

1. Đối với bị cáo Nguyễn Thành K Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh K: 01 (một) năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đỗ Thanh K: 05 (Năm) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 55 của Bộ luật hình sự tổng hợp hình phạt, bị cáo Đỗ Thanh K phải chấp hành hình phạt chung là 06 (sáu) năm tù, thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (ngày 05/9/2021)

2. Đối với bị cáo Nguyễn Hà D Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 54 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Hà D: 05 (năm) năm tù về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn tính từ ngày tạm giữ, tạm giam (04/10/2021).

3. Xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

- Tịch thu sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại Nokia màu đen với sim số 0342607845 của Nguyễn Hà D, 01 (một) điện thoại di động hiệu Samsung màu nâu (không có thẻ sim) của Đỗ Thanh K và số tiền 400.000 đồng (Bốn trăm nghìn đồng).

Số tiền 400.000 đồng hiện đang tạm gửi tại Kho bạc nhà nước huyện Nông Sơn, theo giấy nộp tiền vào tài khoản lập ngày 15/12/2021) - Tịch thu, tiêu hủy: 01 (Một) bì thư của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Nam (bên trong có chứa 0,376g ma túy còn lại sau giám định); 02 (hai) túi ni lông đã cắt phần đuôi; 01 (một) ống hút nhựa; một ống thủy tinh hình chữ L; 01 (một) chai O độ (nắp chai có đục hai lỗ hình tròn); 01 (một) bình ga mini màu vàng xanh, trên vỏ có chữ “Peace World” - Trả lại 01 (một) xe mô tô biển kiểm soát 73N5-2681 cho chủ sở hữu là chị Đỗ Thị Hoài M.

(Vật chứng trên hiện đang tạm giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nông Sơn theo biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 24/01/2022)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội buộc bị cáo Đỗ Thành K và bị cáo Nguyễn Hà D, mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ nhận án sơ thẩm hoặc niêm yết tại nơi cư trú

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

520
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 08/2022/HS-ST

Số hiệu:08/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nông Sơn - Quảng Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;