Bản án 324/2022/HS-ST về tội tàng trữ và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 324/2022/HS-ST NGÀY 29/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ VÀ CHỨA CHẤP VIỆC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 295/2022/TLST-HS ngày 30 tháng 6 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 301/2022/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Quang V, sinh năm 1993, tại tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 18A/3, khu phố 1, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Nơi cư trú: Nhà không số, hẻm 5, tổ 35, khu phố 4A, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 8/12; Quốc tịch: Việt Nam ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Con ông: Nguyễn Tấn T, sinh năm 1969; Con bà: Trần Thị T, sinh năm: 1967; có vợ là Nguyễn Thị Thanh D sinh năm 1987, có 01 con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/7/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 963 ngày 30/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hoà (Bị cáo có mặt).

2. Họ và tên: Võ Hoàng T, sinh năm 1996, tại tỉnh Bạc Liêu; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp B, xã T, huyện B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Quốc tịch: Việt Nam ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Võ Hoàng L, sinh năm 1970; Con bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1972; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án: Ngày 03/6/2019 bị Toà án nhân dân huyện Hoà Bình, tỉnh Bạc Liêu xử phạt 01 năm 03 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tại Bản án số 14/2019/HS-ST ngày 03/6/2019 (chưa xoá án tích).

Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/7/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 966 ngày 30/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (Bị cáo có mặt).

3. Họ và tên: Trần Thị Ngọc H, sinh năm 2000, tại tỉnh Sóc Trăng; Giới tính: Nữ; Nơi cư trú: Ấp 3, xã P, huyện T, tỉnh Sóc Trăng. Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 6/12; Quốc tịch: Việt Nam ; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Đặng Tường G, sinh năm 1979 (cha ruột); Con bà Trần Thị N, sinh năm 1981; cha dượng là ông Võ Văn T, sinh năm 1984; có chồng là Lê Văn S, sinh năm 1998 (sống chung như vợ chồng, chưa đăng ký kết hôn), có 01 con sinh năm 2019.

Tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/7/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 964 ngày 30/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hoà (Bị cáo có mặt).

4. Họ và tên: Kim Long Đ, sinh năm 1997, tại tỉnh Bạc Liêu; Giới tính: Nam; Nơi cư trú: Ấp 15, xã B, huyện B, tỉnh Bạc Liêu; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: Lớp 7/12; Quốc tịch: Việt Nam ; Dân tộc: Khơ me; Tôn giáo: Không; Con ông: Kim N, sinh năm 1976; Con bà Lý Thị Hồng N, sinh năm 1978; Bị cáo chưa có vợ con.

Tiền án, Tiền sự: không.

Bị cáo bị bắt quả tang ngày 21/7/2021, chuyển tạm giam theo Lệnh số 965 ngày 30/7/2021 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (Bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Bà Trần Thị T, sinh năm 1967. Địa chỉ đăng ký HKTT: 18A/3, khu phố 1, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

Nơi cư trú: Tổ 15, khu phố 6, phường B, thành phố H, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bà Trần Thị T, sinh năm 1967, cư trú tại địa chỉ 18A/3, khu phố 1, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai là chủ sở hữu căn nhà không số thuộc hẻm 5, tổ 35, khu phố 4, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai. Khoảng tháng 01/2020, bà T giao căn nhà trên cho Nguyễn Quang V (con trai) quản lý và sử dụng.

Vào các ngày 12/7/2021, 16/7/2021, V cho Trần Thị Ngọc H, Kim Long Đ và Võ Hoàng T (các đối tượng sử dụng trái phép chất ma tuý) đến ở cùng căn nhà nêu trên với V và đã cùng nhau sử dụng ma tuý tại nhà của V vào ngày 16/7/2021, ngày 19/7/2021.

Khoảng 19 giờ ngày 20/7/2021, đối tượng tên V1 (chưa rõ lai lịch, bạn của V) đến nhà của V tại địa chỉ nêu trên. Tại đây, V1 rủ V, H, Đ và T góp tiền mua ma tuý tổng hợp (hàng đá) về cùng sử dụng, Vi, H, Đ và T đồng ý. V góp 350.000đ (Ba trăm năm mươi nghìn đồng), H góp 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), Đ góp 100.000đ (Một trăm nghìn đồng), T góp 150.000đ (Một trăm năm mươi nghìn đồng) được số tiền 700.000đ (Bảy trăm nghìn đồng) đưa cho V1 đi mua ma tuý. V1 cầm số tiền trên đi mua 01 (một) gói ma tuý tổng hợp hàng đá rồi đem về nhà của V tại địa chỉ trên, lấy 01 phần ra cùng V, H, Đ và T sử dụng, phần còn lại Võ chia thành 07 gói nhỏ đưa cho V cất giấu, mục đích để sử dụng dần. Sau đó, V1 bỏ đi đâu không rõ.

Lúc 15 giờ ngày 21/7/2021, khi V, H, Đ và T đang ở nhà của V tại nhà không số thuộc hẻm 5, tổ 35, khu phố 4, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai và cất giấu số ma tuý trên trên ở mặt tủ nhựa đựng quần áo trong phòng ngủ của V thì bị Công an phường Tân Hoà kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang cùng tang vật.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng vụ án:

- 06 (sáu) gói nylon được hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng có kích thước 02cm và 01 (một) gói nillon có kích thước 02x03cm chứa tinh thể màu trắng, đã niêm phong, có chữ ký của Nguyễn Quang V, Trần Thị Ngọc H, Kim Long Đ và Võ Hoàng T và hình dấu mộc tròn của Công an phường Tân Hoà;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S màu vàng hồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang V, số AX 649057 và số tiền 2.550.000đ (Hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) là tài sản của Nguyễn QuangV không sử dụng vào việc phạm tội;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu xám đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu xanh dương và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu PHILIPS màu xám đen là tài sản của Trần Thị Ngọc H không sử dụng vào việc phạm tội;

- 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 385680515 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 950167000763 đều mang tên Kim Long Đ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng trắng là tài sản của Kim Long Đ không sử dụng vào việc phạm tội;

- 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A9 màu xanh là tài sản của Võ Hoàng T không sử dụng vào việc phạm tội.

- 01 (một) xe mô tô hiệu YAMAHA Taurus màu đen biển số 60Y5-1591 Đ khai mượn của chị Lý Thị Hồng Đ (bác của Đ) và không sử dụng vào việc phạm tội. Qua xác minh, chị Đ không biết việc Đ tàng trữ trái phép chất ma tuý, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà đã trả lại cho chị Đ.

Tại Bản kết luận giám định số 1544/PC09-GĐMT ngày 27/7/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai đã kết luận: “- Mẫu tinh thể màu trắng được niêm phong gửi đến giám định là ma túy, có khối lượng 1,6051g loại: Methamphetamine”.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì kết luận giám định.

Tại bản Cáo trạng số: 316/CT-VKSBH ngày 29/6/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai truy tố bị cáo Nguyễn Quang V về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm d khoản 2 Điều 256 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017; các bị cáo Võ Hoàng T, Trần Thị Ngọc H và Kim Long Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng:

- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V từ 16 tháng đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V từ 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Hoàng T từ 20 tháng đến 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Kim Long Đ từ 16 tháng đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc H từ 16 tháng đến 20 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ lượng ma túy Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu giữ còn lại sau giám định.

- Trả lại các bị cáo các tài sản do không liên quan đến vụ án gồm:

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S màu vàng hồng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang V, số AX 649057 và số tiền 2.550.000đ (Hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) cho bị cáo Nguyễn QuangV;

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5 màu xám đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu xanh dương và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu PHILIPS màu xám đen cho Trần Thị Ngọc H;

+ 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 385680515 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 950167000763 đều mang tên Kim Long Đ và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu vàng trắng cho Kim Long Đ;

+ 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A9 màu xanh cho Võ Hoàng T.

Tại phiên toà, các bị cáo không có ý kiến tranh luận, thống nhất với bản cáo trạng và truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa.

Các bị cáo nói lời nói sau cùng: Trong thời gian tạm giam, các bị cáo đã ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Kính mong hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra Công an thành phố Biên Hòa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và không ai có ý kiến hoặc khiếu nại hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Trên cơ sở khai nhận tội của các bị cáo tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, kết luận giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đã có cơ sở xác định: Khoảng 19 giờ ngày 20/7/2021, tại nhà không số thuộc hẻm 5, tổ 35, khu phố 4, phường H, thành phố H, tỉnh Đồng Nai (nhà do bị cáo Nguyễn Quang V quản lý và sử dụng), bị cáo V đồng ý sử dụng căn nhà nêu trên cho Võ Hoàng T, Trần Thị Ngọc H, Kim Long Đ và đối tượng tên V1 (không rõ lai lịch) sử dụng trái phép chất ma tuý. Vào lúc 15 giờ ngày 21/7/2021, tại căn nhà nêu trên, bị cáo V, bị cáo T, bị cáo H, bị cáo Đ đang tàng trữ 1,6051 gam ma tuý, loại Methamphetamine thì bị Công an phường Tân Hoà phát hiện, bắt quả tang. Ngoài ra, bị cáo V, còn cho các bị cáo T, H, Đ sử dụng ma tuý tại căn nhà nêu trên vào các ngày 16/7/2021 và 19/7/2021.

Hành vi của các bị cáo T, H, Đ như đã nêu trên, đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Hành vi của bị cáo V như đã nêu trên, đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt quy định tại điểm b, d, khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Vì vậy, từ những căn cứ trên, xét thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân thành phố Biên Hòa đã truy tố đối với các bị cáo V, T, H, Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đối với hành vi chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý của bị cáo V, nhận thấy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hoà, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố tại phiên toà truy tố bị cáo V về tội danh “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” tội danh và hình phạt quy định tại điểm d, khoản 2 Điều 256 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là chưa đầy đủ.

Các bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự đối với hành vi phạm tội của mình.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng gây nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo một mức án thật nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo.

[3] Bị cáo T bị kết án chưa được xoá án tích nhưng tiếp tục thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Các bị cáo còn lại không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4] Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo và ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Các bị cáo V, H, Đ có nhân thân tốt nên xem xét cho các bị cáo V, H, Đ được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[5] Bị cáo T đã từng bị kết án phải chấp hành hình phạt tù. Lẽ ra, sau khi ra tù, bị cáo T phải lấy đó làm bài học răn dạy bản thân, tu dưỡng rèn luyện, phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội mà lại tiếp tục sử dụng ma tuý. Các bị cáo biết tác hại của ma tuý, nhưng vẫn thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý. Do đó, cần phải áp dụng một mức án thật nghiêm để cải tạo đối với các bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Vụ án có yếu tố đồng phạm nhưng không có tính tổ chức, giữa các bị cáo không có sự bàn bạc hay phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội. Các bị cáo cùng nhau góp tiền mua ma tuý để sử dụng.

[7] Căn cứ tính chất mức độ hành vi, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân, xét thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo theo quy định tại Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

Do các bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được hoàn lại sau khi giám định số 1544 ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).

- Trả lại các bị cáo các tài sản do không liên quan đến vụ án gồm:

+ Trả cho bị cáo V: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S màu vàng hồng có số imei 353340070126555 loại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có số imei 357678104001948; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang V, số AX 649057 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà) và số tiền 2.550.000đ (Hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0002357 ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà;

+ Trả cho bị cáo Trần Thị Ngọc H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5s, số máy MF353VN/A, số seri DX32GQSPFRES màu xám đen; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu xanh dương số Imei: 358201215399561 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu PHILIPS S327 màu xám đen (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà);

+ Trả cho bị cáo Kim Long Đ: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 385680515 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 950167000763 đều mang tên Kim Long Định và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu vàng trắng có số imei 862988034163074 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà);

+ Trả cho bị cáo Võ Hoàng T 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A9 màu xanh dương có số imei 860028042345033 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).

[9] Đối với đối tượng tên V1 hiện chưa rõ nhân thân, lai lịch Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa tiếp tục xác minh, làm rõ xử lý sau.

[10] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa về tội danhmức hình phạt phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[11] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[12] Về quyền kháng cáo: Theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố :

- Bị cáo Nguyễn Quang V phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

- Các bị cáo Võ Hoàng T, Trần Thị Ngọc H, Kim Lọng Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Căn cứ :

- Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

+ Điểm d khoản 2 Điều 256, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quang V 07 (bảy) năm tù về tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý”.

Căn cứ vào Điều 55 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017, tổng hợp hình phạt của hai tội là: 08 (tám) năm 04 (bốn) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Võ Hoàng T 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Kim Long Đ 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021.

- Điểm c, khoản 1, Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017. Xử phạt bị cáo Trần Thị Ngọc H 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Thời hạn tù tính từ ngày 21/7/2021.

3. Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu huỷ 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng đã được hoàn lại sau khi giám định số 1544 ngày 28/7/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).

+ Trả cho bị cáo V: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 6S màu vàng hồng có số imei 353340070126555 loại cũ đã qua sử dụng; 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, có số imei 357678104001948; 01 (một) giấy phép lái xe mang tên Nguyễn Quang V, số AX 649057 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà) và số tiền 2.550.000đ (Hai triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền số 0002357 ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà;

+ Trả cho bị cáo Trần Thị Ngọc H: 01 (một) điện thoại di động hiệu Iphone 5s, số máy MF353VN/A, số seri DX32GQSPFRES; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A92 màu xanh dương số Imei: 358201215399561 và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu PHILIPS S327 màu xám đen (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà);

+ Trả cho bị cáo Kim Long Đ: 01 (một) giấy chứng minh nhân dân số 385680515 và 01 (một) giấy phép lái xe hạng A1 số 950167000763 mang tên Kim Long Định và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu OPPO A37F màu vàng trắng có số imei 862988034163074 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà);

+ Trả cho bị cáo Võ Hoàng T 01 (một) điện thoại di động hiệu OPPO A9 màu xanh dương có số imei 860028042345033 (theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17/02/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Biên Hoà).

4. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban Thường Vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Buộc các bị cáo Nguyễn Quang V, Võ Hoàng T, Trần Thị Ngọc H, Kim Long Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 324/2022/HS-ST về tội tàng trữ và chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý

Số hiệu:324/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;