Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 05/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGA SƠN, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 05/2023/HS-ST NGÀY 24/03/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG

Ngày 24/3/2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 01/2023/TLST-HS ngày 18/01/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2023/QĐXXST-HS ngày 10/3/2023 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1990; STQ tại: thôn N, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Q, sinh năm 1969; con bà Mai Thị T, sinh năm 1972; có vợ: Đặng Thị Thu (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2011.

Tiền án:

- Ngày 19/11/2013, bị TAND huyện Hậu Lộc xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án sơ thẩm số 77/2013/HSST; chấp hành xong hình phạt ngày 25/5/2014.

- Ngày 26/02/2015, bị TAND huyện Nga Sơn xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án sơ thẩm số 06/2015/HSST; chấp hành xong án phạt ngày 14/5/2015.

- Ngày 05/11/2015, bị TAND huyện Nga Sơn xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án sơ thẩm số 31/2015/HSST; chấp hành xong án phạt ngày 07/11/2015.

- Ngày 28/8/2018, bị TAND huyện Nga Sơn xử phạt 24 tháng tù về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản” tại bản án sơ thẩm số 25/2018/HSST; chấp hành xong án phạt ngày 06/4/2020.

- Ngày 26/01/2021, bị TAND huyện Nga Sơn xử phạt tù 07 năm 06 tháng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tại bản án sơ thẩm số 05/2021/HSST.

Tiền sự: không;

Bị cáo bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (từ ngày 20/12/2022 đến nay), có mặt.

* Người làm chứng:

1/ Anh Nguyễn Xuân H, sinh năm 1984; địa chỉ: Tiểu khi H, thị trấn N, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

2/ Anh Nguyễn Văn H1, sinh năm 1983; địa chỉ: Thôn N, xã G, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

3/ Anh Đồng Quang T1, sinh năm 1973; địa chỉ: Số 151, Đội Cung, phường Đông Thọ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 01 giờ 10 phút, ngày 06/4/2018, Nguyễn Văn T bị Công an huyện Nga Sơn phát hiện, vây bắt tại khu vực xóm 4, xã Nga Mỹ trong vụ án “Cố ý làm hư hỏng tài sản” do Cơ quan CSĐT khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Tiến hành khám người T thu giữ: trong túi quần 01 vật hình trụ có dạng hình chiếc bút bằng kim loại, 07 viên đạn bằng kim loại; thu giữ trong túi xách da đen T đeo bên người là 05 viên đạn bằng kim loại màu đồng. T khai nhận 01 khẩu súng tự chế và 12 viên đạn là của T mang theo mục đích để phòng thân.

Tại kết luận giám định số 778/PC54, ngày 15/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Thanh Hóa, kết luận:

- 01 vật hình trụ có dạng hình chiếc bút bằng kim loại là súng tự chế kiểu hình bút, bắn được đạn cỡ 5,6mm; súng có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng.

- 06 viên đạn bằng kim loại, đầu đạn dạng tù xám là loại đạn thể thao cỡ (5,6 x15,5)mm.

- 01 viên đạn bằng kim loại có ký hiệu “SK” ở đít đạn, đầu đạn dạng tù xám là loại đạn thể thao cỡ (5,6 x 10,5)mm.

- 05 viên đạn bằng kim loại màu đồng, đầu đạn dạng tù đều là loại đạn quân dụng cỡ (9 x 18)mm đạn K59.

Kết quả giám định xác định 01 khẩu súng tự chế có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng K59 mà T tàng trữ.

Ngày 30/5/2018, Công an huyện Nga Sơn đã khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can đối với Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định khoản 2 Điều 304 BLHS.

Ngày 15/6/2018, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nga Sơn ra Quyết định chuyển vụ án, số 03/QĐ-VKSNS đến Cơ quan an ninh điều tra, Công an tỉnh Thanh Hóa để điều tra theo thẩm quyền.

Ngày 07/8/2012, Cơ quan an ninh điều tra, Công an tỉnh Thanh Hóa đã ban hành Kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố Nguyễn Văn T về “Tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 2 Điều 304 BLHS và chuyển toàn bộ hồ sơ đến VKSND tỉnh Thanh Hóa.

Ngày 28/8/2018, VKSND tỉnh Thanh Hóa ban hành cáo trạng số 40/Ctr-VKS- P1 đè nghị truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa để xét xử bị can Nguyễn Văn T.

Ngày 09/10/2018, TAND huyện Nga Sơn ra Quyết định đưa vụ án ra xét xử. Ngày 23/10/2018, TAND huyện Nga Sơn đưa vụ án ra xét xử về tội danh “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” và Hội đồng xét xử đã ra Quyết định tạm đình chỉ vụ án đối với Nguyễn Văn T.

Ngày 08/7/2021, TAND huyện Nga Sơn ra Quyết định phục hồi vụ án số 01/2021/HSST-QĐ. Ngày 19/7/2021, TAND huyện Nga Sơn ra Quyết số 01/2021/HSST-QĐ trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 29 BLTTHS, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của bộ Nội vụ- VKSNDTC-TANDTC, do sự thay đổi chính sách, pháp luật nên hành vi tàng trữ 01 khẩu súng tự chế , có tính năng, tác dụng tương tự vũ khí quân dụng của Nguyễn Văn T thực hiện trước ngày 01/7/2018 (thời điểm Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hổ trợ có hiệu lực) không còn nguy hiểm cho xã hội. Đối với 05 viên đạn K59 vật phạm pháp có số lượng dưới 30 viên so với định lượng quy định tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN, ngày 07/01/1995.Ngày 18/8/2021, VKSND tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định đình chỉ vụ án số 03/QĐ-VKS-P1, Quyết định đình chỉ vụ án đối với Nguyễn Văn T số 03/QĐ-VKS-P1.

Ngày 25/10/2022, VKS ND tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định hủy bỏ Quyết định đình chỉ vụ án số 02/QĐ-VKS-P1; Quyết định hủy bỏ Quyết định đình chỉ vụ án đối với Nguyễn Văn T số 02/QĐ-VKS-P1. Ngày 28/10/2022, VKSND tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định phục hồi vụ án số 02/QĐ-VKS-P1, Quyết định phục hồi vụ án đối với Nguyễn Văn T số 02/QĐ-VKS-P1 Ngày 23/11/2022, VKSND tỉnh Thanh Hóa ra Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung số 01/QĐ-VKS-P1 để Cơ quan An ninh điều tra để tiếp tục điều tra về hành vi tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng của Nguyễn Văn T để xử lý theo quy định của pháp luật.

Quá trình điều tra bị cáo T khai nhận: Quá trình trốn nã, ngày 04/4/2018 T đến nhà bác ruột là Nguyễn Quang Ánh, ở thôn N, xã G, huyện Nga Sơn để thăm bà nội là Mai Thị Ong, sinh năm 1927. Đến nhà nhưng chỉ có bà Ong ở nhà, T nhìn thấy trong tủ ly để ở phòng khách có 01 chiếc đĩa màu ghi, đường kính khoảng 20cm, trũng lòng, trong đĩa có 05 viên đạn. T tự ý lấy, không ai biết, cất số đạn vừa lấy được vào túi da đen đeo bên người.

Ngày 05/4/2018, T tình cờ gặp bạn cũ là An, cổng chùa gần cầu Đông Hương, TP.Thanh Hóa. Là bạn cũ quen nhau từ năm 2017, nay gặp lại An cho T 01 khẩu súng tự chế, màu trắng, dài 20cm, quấn dây đen ở phần nắm và 07 viên đạn thể thao màu đồng, đầu đạn bằng chì, dài khoảng 3cm đề làm kỷ niệm. An nói cho T biết 07 viên đạn này sử dụng súng tự chế được. Sau đó, T đã cất giấu khẩu súng tự chế cùng 07 viên đạn trong túi quần và có lưu tên của An trong điện thoại “Anh TP” rồi đi về nhà trọ của anh Nguyễn Văn Thủy, xóm 4, xã Nga Mỹ để nghỉ. Đến 01 giờ 10 phút, ngày 06/4/2018, T bị Công an huyện Nga Sơn phát hiện, bắt truy nã; thu giữ 01 khẩu súng tự chế, 07 viên đạn thể thao, 05 viên đạn quân dụng.

Tuy nhiên, hành vi tàng trữ 01 khẩu súng tự chế có tính năng tác dụng tương tự như vũ khí quân dụng: theo quy định tại Điều 3 Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hổ trợ số 14/2017, có hiệu lực ngày 01/7/2018; điểm d khoản 2 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 về việc thi hành Bộ luật hình sự 2015 đã được sửa đổi, bổ sung 2017 và hiệu lực thi hành của Bộ luật tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13 Luật thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13; điểm b khoản 2 Điều 152 Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật số 80/2015/QH13 ngày 22/6/2015 về “Hiệu lực trở về trước của văn bản quy phạm pháp luật”, theo đó “Không được quy định hiệu lực trở về trước đối với trường hợp quy định trách nhiệm pháp lý nặng hơn”; khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định về “Hiệu lực của bộ luật hình sự về thời gian” theo đó “điều luật xóa bỏ một tội phạm….có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi có điều luật đó có hiệu lực thi hành”.

Do đó, hành vi tàng trữ 01 khẩu súng tự chế có tính năng tác dụng tương tự vũ khí quân dụng của Nguyễn Văn T được xem xét miễn trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ pháp luật. Vì vậy, không xem xét xử lý T về hành vi này.

Hành vi tàng trữ 07 viên đạn thể thao vi phạm điểm d khoản 5 Điều 10 Nghị định 167/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ, pháo và đồ chơi nguy hiểm bị cấm, cần phải được xem xét, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 6 Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012; tiết a điểm a khoản 4 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật xử lý vi phạm hành chính số 67/2020/QH14 ngày 13/11/2020 thì hành vi của Nguyễn Văn T đã hết thời hiệu xử lý vi phạm hành chính. Nên hành vi vi phạm của Nguyễn Văn T sẽ không bị xử lý hành chính là có cơ sở.

Đối với người tên An do T khai đã cho T khẩu súng tự chế, Cơ quan an ninh điều tra đã tiến hành xác minh, điều tra làm rõ nhưng tại phường Quảng Tiến, TP.Sầm Sơn xác định không có trường hợp nào tên An làm nhân vien quán Galaxy có hộ khẩu thường trú, tạm trú và thuê trọ, sinh sống tại địa bàn. Tiến hành làm việc với chủ cơ sở Galaxy là ông Đồng Quang T1 nhưng không có nhân viên nào tên An làm ở quan nên CQĐT không có cơ sở để tiếp tục điều tra và xác minh đối với đối tượng này.

Đối với 02 điện thoại di động Nokia của T được Cơ quan điều tra giao lại cho ông Nguyễn Văn Quyết (bố đẻ T), nhận lại điện thoại ông Quyết không chỉnh sửa, sử dụng nội dung gì trong điện thaoij, kiểm tra điện thoại của T không có tên nào lưu là “An TP”. Việc T tàng trữ 01 khẩu súng tự chế, 07 viên đạn thể thao, 05 viên đạn quân dụng trong quá trình trốn nã ông Quyết không biết.

Về số viên đạn để trong tủ ly thì qua xác minh ông Nguyễn Văn H1, sinh năm 1983, thôn N, xã G (con trai ông Nguyễn Quang Ánh), trình bày: bố anh chết năm 2014, nhà của bố anh hiện nay vợ chồng anh và bà nội đang ở và sinh sống. Từ trước đến nay gia đình không có viên đạn nào để trong tủ ly. Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, làm rõ để xử lý theo quy định.

Truy nguyên nguồn gốc 05 viên đạn quân dụng k59 tại cục quân khí Tổng cục kỹ thuật, Bộ quốc phòng, Cục quản lý hành chính về TTXH-Bộ Công an, Cục trang bị và kho vận- Bộ công an: kết quả xác định do không có thông tin về lô sản xuất nên không đủ cơ sở để kiểm tra, rà soát xem số đạn này đang được quản lý hay không.

Về xử lý vật chứng: 01 khẩu súng tự chế dạng hình bút; 07 viên đạn thể thao;

05 viên đạn K59 hiện đang được bảo quản tại kho T5, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa, chờ xử lý theo quy định.

Tại bản cáo trạng số 16/CT-VKS-P1, ngày 16/01/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 BLHS.

Tại phiên toà, trong phần luận tội, đại diện VKSND huyện Nga Sơn vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Nguyễn Văn T như cáo trạng VKSND tỉnh Thanh Hóa đã truy tố và đề nghị HĐXX áp dụng: khoản điểm h khoản 2 Điều 304; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 56; Điều 38 của Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T từ 05 đến 05 năm 06 tháng tù; thời hạn tù tính từ ngày tạm giam 20/12/2022; tổng hợp hình phạt tù 07 năm 06 tháng của bản án số 05/2021, ngày 26/01/2021 của TAND huyện Nga Sơn, nhưng được trừ đi thời gian bị cáo đã chấp hành là 02 năm 03 tháng 16 ngày; buộc bị cáo T phải chấp hành hình phạt chung cho hai bản án; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (20/12/2022).

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng tự chế dạng hình bút;

07 viên đạn thể thao; 05 viên đạn K59.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với VKS, bị cáo Nguyễn Văn T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với những tài liệu, chứng cứ đã thu thập trong hồ sơ, phù hợp với lời khai của những người làm chứng về thời gian, địa điểm và hành vi phạm tội của bị cáo, HĐXX đủ cơ sở kết luận: Ngày 06/4/2018, tại địa phận xóm 4, xã Nga Mỹ, huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa Công an huyện Nga Sơn bắt truy nã Nguyễn Văn T liên quan đến vụ án “Cố ý làm hư hỏng tài sản”. Khám xét thu giữ trong túi xách da đen T đeo bên người 05 viên đạn ; qua giám định là loại đạn quân dụng cỡ (9 x 18) mm.Hành vi phạm tội lần này của Nguyễn Văn T là người đã tái phạm nhưng chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 của BLHS. Như vậy, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh hóa truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” theo quy định tại điểm h khoản 2 Điều 304 của BLHS là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo: Đây là vụ án có tính chất rất nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chế độ quản lý vụ khí quân dụng của Nhà nước , gây mất trật tự trị án tại địa phương, gây tâm lý bất an trong quần chúng nhận dân. Bị cáo T với thái độ xem thường pháp luật, bị cáo đã ngang nhiên tàng trữ trái phép là 05 viên đạn K59, trong khi bị cáo đang bị lực lượng công an truy nã về hành vi “Cố ý làm hư hỏng tài sản” xảy ra thời gian trước đó. Lần phạm tội này của bị cáo là tái phạm nguy hiểm, ngày 26/01/2021 bị cáo bị Tòa án nhân dân huyện Nga Sơn xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân mà tiếp tục phạm tội. Lần phạm tội lần này của bị cáo thuộc trường hợp “tái phạm nguy hiểm”, không thuộc trường hợp tăng nặng trách nhiệm hình sự theo điểm h khoản 1 Điều 52 của BLHS, mà thuộc trường hợp định khung hình phạt theo điểm h khoản 2 Điều 304 của BLHS;

[3] Xét nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

- Nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu - Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết giảm nhẹ TNHS: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình. Ngoài ra, bị cáo có ông ngoại là Mai Văn Kiểu được Chủ tịch nước khen thưởng có công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; gia đình bị cáo có hoàn cảnh bố ốm đau, vợ chồng ly hôn, con nhỏ ở với bị cáo nhưng hiện nay bị cáo phải đi chấp hành án, con bị cáo ở với ông bà nội. Vì vây, cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS.

[4] Hình phạt bổ sung: Bị cáo là lao động tự do, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung theo khoản 5 Điều 304 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo.

[5] Từ những căn cứ nêu trên HĐXX xét thấy: Cần áp dụng Điều 38 của BLHS có mức hình phạt nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ phạm tội đối với bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo thành công dân biết tôn trọng pháp luật. Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt cần xem xét các tình tiết giảm nhẹ; điều kiện hoàn cảnh gia đình của bị cáo để giảm cho bị cáo một phần hình phạt là thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

[6] Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS:

Tịch thu tiêu hủy: 01 khẩu súng tự chế dạng hình bút; 07 viên đạn thể thao; 05 viên đạn K59.

[7] Về tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: đều thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục và căn cứ theo quy định tại các Điều 37; Điều 42 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí HSST theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ vào: điểm h khoản 2 Điều 304; Điều 56; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

* Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

* Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (20/12/2022).

Tổng hợp hình phạt 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù theo bản án số 05/2021/HSST, ngày 26/01/2021 của TAND huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa, buộc bị cáo phải chấp hành chung của hai bản án là 12 (mười hai) năm 06 (sáu) tháng tù, nhưng bị cáo được trừ thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước là 02 (hai) năm 03 (ba) tháng 16 (mười sáu) ngày. Bị cáo còn phải chấp hành 10 (mười ) năm 02 (hai) tháng 14 (mười bốn) ngày. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam (20/12/2022).

* Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 BLHS; khoản 1; điểm a khoản 2 Điều 106 BLTTHS: Tịch thu tiêu hủy 01 khẩu súng tự chế dạng hình bút;

07 viên đạn thể thao; 05 viên đạn K59.

Giao cho Phòng kỹ thuật, Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Thanh Hóa xử lý vật chứng (Theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 30/8/2021 giữa Cơ quan an ninh điều tra Công an tỉnh Thanh Hóa và Phòng kỹ thuật- Bộ chỉ huy quân sự, tỉnh Thanh Hóa).

* Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 và danh mục án phí, lệ phí ban hành kèm theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016: Buộc bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

* Quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 BLTTHS, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

28
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng số 05/2023/HS-ST

Số hiệu:05/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nga Sơn - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/03/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;