TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 49/2024/HS-ST NGÀY 10/09/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP VẬT LIỆU NỔ
Ngày 10 tháng 9 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 43/2024/TLST-HS ngày 15 tháng 7 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/2024/QĐXXST-HS ngày 16 tháng 8 năm 2024 và quyết định hoãn phiên tòa số 59/2024/HSST-QĐ ngày 29 tháng 8 năm 2024 đối với bị cáo:
Lang Văn S, sinh năm 1983 tại tỉnh Đắk Nông; nơi cư trú: bon R, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lang Văn C và bà Vi Thị T ( đều đã chết); có vợ là Trần Thị T1, sinh năm 1984 và 03 con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2023 đến ngày 18/3/2024 được tại ngoại - Có mặt.
Người bào chữa cho bị cáo Lang Văn S: Bà Mai Thị H (có đơn xin xét xử vắng mặt) và ông Phạm Quang L là trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đ - có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Năm 2018, Lang Văn S (Sinh năm 1983, đăng ký thường trú: bon R, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông) đi bắt doi tại khu vực rừng thuộc huyện L, tỉnh Đắk Lắk, khi đi về qua đoạn Km 635 + 500m, đường T, thuộc xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng, S phát hiện tại vị trí đoạn đường bê tông cách cây cầu đi qua suối nước 25m, có 02 bao xác rắn, bên trong có chứa 02 thỏi thuốc nổ dạng dẻo màu trắng, dài 30cm và 33cm, khối lượng khoảng 02kg. S biết là thuốc nổ (S đã từng nhìn thấy người khác sử dụng thuốc nổ để khai thác đá) nhưng vẫn mang về cất giấu tại gác lửng phòng khách của nhà rẫy gia đình thuộc thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông, với mục đích để sử dụng. (Bút lục 177).
Khoảng 19 giờ 00 phút ngày 25/12/2023, một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) đến nhà rẫy của Lang Văn S thuộc thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông, hỏi mua thuốc nổ. S lấy 02 thỏi thuốc nổ từ gác gỗ và đưa cho người đàn ông thì người này từ chối mua, với lý do không có kíp nổ và rời đi. Khi S chuẩn bị mang 02 thỏi thuốc nổ đi cất giấu thì bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Nông bắt quả tang. (Bút lục 06, 07; 82, 84, 156, 157). Kết luận giám định số 410 ngày 29/12/2023, của Phân viện Khoa học Hình sự tại thành phố Hồ Chí Minh, Bộ C2, đã kết luận các vật chứng thu giữ tại chòi rẫy của Lang Văn S, gồm: 01 túi ni lông màu vàng bên trong đựng 01 túi xác rắn màu trắng hình trụ tròn, có kích thước dài 30cm, bên trong chứa chất dẻo màu trắng và 01 túi ni lông màu cam bên trong đựng 01 túi xác rắn màu trắng hình trụ tròn, có kích thước dài 33cm, bên trong chứa chất dẻo màu trắng, là thuốc nổ nhũ tương, thuộc nhóm thuốc nổ công nghiệp. Tổng khối lượng 02kg. (Bút lục 46).
Cáo trạng số 36/CT-VKSĐN-P2 ngày 15-7-2024 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Lang Văn S về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Lang Văn S đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và thừa nhận Cáo trạng truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ” theo quy định tại khoản 1 Điều 305 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội và không oan.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông sau khi phân tích các tình tiết của vụ án đã giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Lang Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lang Văn S từ 30 đến 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.
Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu và giao cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đ phối hợp với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đ để tiêu hủy: 02 túi màu trắng, bên trong hai túi có chứa chất màu trắng, là vật liệu nổ (do không xác định được nguồn gốc, xuất xứ).
Đối với điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, của Lang Văn S, có dữ liệu điện tử liên quan đến việc S hỏi mua thuốc nổ của Lương Văn L1. Do đó, cần tiếp tục tạm giữ để phục vụ công tác xét xử.
Người bào chữa cho bị cáo trình bày: Không có ý kiến về tội danh mà Đại diện Viện kiểm sát đề nghị. Tuy nhiên, bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tích cực khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo là người dân tộc thiểu số, trình độ học vấn thấp nên nhận thức hạn chế, cho rằng chất nổ nhặt được dùng để chăm bón, hòa nước tưới trị bệnh cho cây trồng, mới tàng trữ thay vì giao nộp cho cơ quan chức năng, có nhân thân tốt, gia đình có hoàn cảnh khó khăn nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Bị cáo đồng ý với quan điểm của người bào chữa và không bào chữa, tranh luận gì thêm, chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về tội danh: Năm 2018, Lang Văn S nhặt được 02kg thuốc nổ nhũ tương, là vật liệu nổ, tại đoạn Km 635 + 500m, đường T, thuộc xã Đ, huyện L, tỉnh Lâm Đồng. S mang về cất giấu tại gác lửng phòng khách của nhà rẫy gia đình thuộc thôn N, xã N, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Đến 19 giờ 00 phút ngày 25/12/2023, Lang Văn S bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K, tỉnh Đắk Nông, bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ.
Do đó, hành vi của Lang Văn S đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 305 Bộ luật Hình sự.
Điều 305 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vật liệu nổ, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm ...” [3]. Hội đồng xét xử xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nghiêm trọng, đã xâm phạm trực tiếp đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vật liệu nổ, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn công cộng. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được vật liệu nổ được Nhà nước độc quyền quản lý và chỉ được sử dụng trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, đối với các hoạt động khác chỉ những cơ quan, tổ chức, cá nhân được Nhà nước cho phép mới được sử dụng và có quy trình sử dụng, giám sát cụ thể, mọi hành vi tàng trữ trái phép đều bị nghiêm trị. Nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi tàng trữ trái phép vật liệu nổ. Mặc dù, sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tại giai đoạn xét xử bị cáo cung cấp thêm tình tiết giảm nhẹ gia đình có hoàn cảnh khó khăn, có xác nhận của chính quyền địa phương cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cần thiết cách ly bị cáo với xã hội một thời gian mới đảm bảo được việc giáo dục, cũng như đảm bảo việc, đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.
Xét quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên tòa về tội danh là phù hợp nhưng về hình phạt có phần nghiêm khắc nên Hội đồng xét xử không chấp nhận.
Xét luận cứ bào chữa của Trợ giúp viên tại phiên tòa là có phần phù hợp nên Hội đồng xét xử xem xét chấp nhận.
[4]. Về xử lý vật chứng: Tịch thu, giao cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đ phối hợp với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đ để tiêu hủy: 02 túi màu trắng, bên trong hai túi có chứa chất màu trắng, là vật liệu nổ (do không xác định được nguồn gốc, xuất xứ).
Tiếp tục tạm giữ điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, của Lang Văn S, có dữ liệu điện tử liên quan đến việc S hỏi mua thuốc nổ của Lương Văn L1 để phục vụ công tác giải quyết vụ án.
[5]. Về án phí: Bị cáo Lang Văn S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
[6]. Đối với người đàn ông hỏi mua 02kg thuốc nổ của Lang Văn S vào ngày 25/12/2023, việc mua bán dừng lại ở việc thỏa thuận, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người hỏi mua do đó không có căn cứ xử lý. Đối với nội dung tin nhắn Messenger Facebook trong thiết bị điện thoại di động của Lang Văn S, lời khai của S và Lương Văn L1, xác định: Tháng 5/2022, Lương Văn L1 mua 04kg thuốc nổ (gồm 20 thỏi thuốc nổ) của 01 người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch, với giá 800.000 đồng, cất giấu tại ven bờ suối gần chân tua bin của Thủy điện N, thuộc Thác Cổ C1, xã N'Đ, huyện K, tỉnh Đắk Nông. Ngày 21/6/2022, S đi đến Thủy điện N, mua 04kg thuốc nổ của L1, với giá: 2.000.000 đồng. Cùng ngày, tại vườn cao su gần thủy điện N, S đã bán 10 thỏi thuốc nổ (khoảng 02kg) cho 02 người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch. 10 thỏi thuốc nổ còn lại, mang về cất giấu. Ngày hôm sau, tại chòi rẫy của gia đình, S đã bán một số lượng thuốc nổ cho một người đàn ông không rõ nhân thân, lai lịch (không nhớ rõ bao nhiêu thỏi); số thuốc nổ còn lại vào tháng 02/2023, trên đường đi đánh cá tại xã K, huyện B, tỉnh Đắk Lắk, S đã làm rơi. Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đ đã thực hiện hết các biện pháp điều tra nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông bán thuốc nổ cho L1, những người mua thuốc nổ của S, không thu giữ được thuốc nổ, nên không có căn cứ để xem xét, xử lý. Nên đồng ý với quan điểm giải quyết của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Tuyên bố bị cáo Lang Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép vật liệu nổ”.
Áp dụng khoản 1 Điều 305; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Lang Văn S 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án, trừ đi thời gian bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/12/2023 đến ngày 18/3/2024.
2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 46, điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự:
Tịch thu, giao cho Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Đ phối hợp với Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Đ tiêu hủy: 02 túi màu trắng, bên trong hai túi có chứa chất màu trắng, là vật liệu nổ.
Tiếp tục tạm giữ điện thoại di động hiệu Vivo màu xanh, của Lang Văn S, có dữ liệu điện tử liên quan đến việc S hỏi mua thuốc nổ của Lương Văn L1 để phục vụ công tác giải quyết vụ án.
3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc Lang Văn S phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội tàng trữ trái phép vật liệu nổ số 49/2024/HS-ST
| Số hiệu: | 49/2024/HS-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
| Lĩnh vực: | Hình sự |
| Ngày ban hành: | 10/09/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về