Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và không tố giác tội phạm số 42/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NẬM NHÙN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 42/2022/HS-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ KHÔNG TỐ GIÁC TỘI PHẠM

Trong ngày 14 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Nậm Nh, tỉnh Lai Châu. Xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2022/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2022 và Thông báo mở lại phiên tòa đối với các bị cáo:

1. Mào Văn Th (Tên gọi khác: Không) - sinh năm 1996 tại huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú, chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Phiêng Kh, xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Mào Văn H – sinh năm 1970 và con bà Lù Thị Nh – sinh năm 1973; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình. Vợ: Chim Thị D – sinh năm 1998, con: Bị cáo có 02 con, con lớn sinh năm 2017 con nhỏ nhất sinh năm 2020. Tiền án: không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/11/2021 tại Nhà tạm giữ Công an huyện Nậm Nhùn, tỉnh Lai Châu cho đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

2. Lý Văn S (Tên gọi khác: Không) - sinh năm 1998 tại huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Nơi cư trú, chỗ ở trước khi bị bắt: Bản Phiêng Kh, xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hoá (học vấn): 6/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý Văn Ph – sinh năm 1960 và con bà Lù Thị V – sinh năm 1968; gia đình có 03 anh chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình. Vợ, con: Chưa có. Tiền án: không, tiền sự: Không. Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ ngày 17/11/2021 đến ngày 27/11/2021 bị áp dụng biện pháp Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú tại bản Phiêng Kh xã Bum N, huyện Mường T, tỉnh Lai Châu. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

Chị Lù Thị H – sinh năm: 2000 – Vắng mặt Địa chỉ: Bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm Nh, tỉnh Lai Châu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Về hành vi phạm tội của các bị cáo:

Khoảng 12 giờ 30 phút, ngày 17/11/2021, Mào Văn Th rủ Lý Văn S đi từ nhà ở bản Phiêng Kh, xã Bum N, huyện Mường T xuống thị trấn Mường T, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu để bê đồ giúp, Sinh đồng ý. Thuân điều khiển xe mô tô BKS 25 M1 – 10276 của em họ là Lù Thị H, chở Sinh đi. Tuy nhiên khi đi xe ra đến Quốc lộ 4H, Th rủ S lên bản Pa M, xã Hua B, huyện Nậm Nh để tìm mua ma túy sử dụng, S đồng ý. Tại bản Pa M, Th giao dịch, dùng 200.000 đồng của Th mua được 01 gói Heroine với một người phụ nữ không rõ lai lịch, quá trình Th mua bán ma túy S có mặt và chứng kiến. Sau khi mua được Heroine, Th tách lấy một ít rồi cùng S sử dụng bằng hình thức hít, số ma túy còn lại Th gói lại rồi cầm trên tay phải và nói với S khi nào sử dụng sẽ gọi, rồi tiếp tục chở S về nhà. Khi đi đến thủy điện Nậm B, S xuống xe đi bộ về trước. Th điều khiển xe đi trả cho em gái họ rồi đi bộ về nhà. Hồi 14 giờ 0 phút cùng ngày khi Th đi bộ đến Km 296, Quốc lộ 4H, thuộc bản Pa M, xã Hua B thì bị Công an huyện Nậm Nh phát hiện bắt quả tang Th đang cầm 01 gói Heroine trong lòng bàn tay phải. Sau khi bắt Th, Th khai ra S đến khoảng 16 giờ 0 phút ngày 17/11/2021 Công an bắt Lý Văn S.

Bản kết luận giám định tư pháp số 62 ngày 18/11/2021 giám định viên tư pháp kết luận số chất bột, màu trắng thu giữ của Th có khối lượng 0,38 gam. Kết luận giám định số 861/GĐ-KTHS ngày 23/11/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu, kết luận 01 gói chất bột, màu trắng thu giữ của Th gửi giám định là Heroine.

Về vật chứng thu giữ được:

+ 0,38 gam Heroine đã gửi giám định toàn bộ, không hoàn lại mẫu vật.

+ Số vỏ bì niêm phong và mảnh nilon sau khi mở niêm phong.

Cáo trạng số 17/CT – VKS ngày 14 tháng 3 năm 2022 của VKSND huyện Nậm Nhùn truy tố: Bị can Mào Văn Th về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS. Bị can Lý Văn S về tội: “Không tố giác tội phạm” theo quy định tại khoản 1 Điều 390 của BLHS. Tại phiên tòa vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng bổ sung thêm điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS đối với bị cáo Lý Văn S và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249 của BLHS; điểm s khoản 1, Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt: Mào Văn Th từ 16 đến 20 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2021. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

- Áp dụng khoản 1 Điều 390, điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47 Bộ luật hình sự xử phạt: Lý Văn S từ 06 tháng đến 09 tháng tù về tội Không tố giác tội phạm và được khấu trừ đi 09 ngày tạm giữ. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy Số vỏ bì niêm phong và mảnh nilon. Về án phí hình sự sơ thẩm đối với các bị cáo đề nghị HĐXX xem xét theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo đều nhất trí với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát, các bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình và không có ý kiến khiếu nại gì. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản mở niêm phong, lời khai của các bị cáo trong quá trình điều tra, kết quả giám định, cùng các tài liệu chứng cứ thu thập hợp pháp trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử. Tại phần tranh tụng: Đại diện Viện kiểm sát, các bị cáo không có ý kiến tranh luận và đối đáp gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo Mào Văn Th: Bị cáo biết việc làm của mình là vi phạm pháp luật bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm trở về với gia đình và xã hội.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lý Văn S: Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để bị cáo sớm trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Nậm Nh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và xét xử tại phiên tòa các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác đều không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với nội dung của bản cáo trạng mà Viện kiểm sát truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như biên bản bắt người phạm tội, biên bản mở niêm phong xác định trọng lượng, các kết luận giám định và lời khai của người tham gia tố tụng khác… được xem xét và thẩm tra công khai tại phiên tòa. Khoảng 14 giờ 00 phút ngày 17/11/2021, tại Km 296, Quốc lộ 4H, thuộc bản Pa Mu, xã Hua B, huyện Nậm Nh, tỉnh Lai Châu, Mào Văn Th đang tàng trữ trái phép 0,38 gam Heroine mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Nậm Nh phát hiện bắt quả tang, thu giữ.

Ngày 17/11/2021, Lý Văn S biết rõ Mào Văn Th tàng trữ trái phép số Heroine trên, nhưng do được Th hứa hẹn cho sử dụng cùng, nên đã không đi tố giác hành vi của Th với cơ quan chức năng.

Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, do nghiện ma túy nên các bị cáo đã phạm tội. Hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, hành vi này là nguy hiểm cho xã hội. Xét vai trò của các bị cáo trong vụ án, Hội đồng xét xử thấy rằng: bị cáo Mào Văn Th đã có hành vi Tàng Trữ trái phép chất ma túy với mục đích để sử dụng, bị cáo Lý Văn S biết rõ Mào Văn Th đang Tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng vì nghiện ma túy và được Th hứa cho sử dụng nên S đã không tố giác hành vi phạm tội cho nên hành vi của S đã phạm tội Không tố giác tội phạm. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đều nhất trí như quyết định truy tố của Viện kiểm sát. Do đó, quan điểm xử lý trách nhiệm hình sự của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa đối với các bị cáo là hoàn toàn có cơ sở, không oan sai, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Về nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo:

Đối với các bị cáo: Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa các bị cáo đều đã thể hiện sự ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho các bị cáo theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Đối với bị cáo Lý Văn S áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 BLHS như Đại điện Viện kiểm sát nhân dân huyện Nậm Nh bổ sung tại phiên tòa là phù hợp theo quy định. Tại phiên tòa bị cáo S cũng xuất trình thêm giấy chứng nhận gia đình bị cáo thuộc hộ nghèo. Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Trên cơ sở xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của các bị cáo. HĐXX đã cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ và nhân thân đối với từng bị cáo để đưa ra mức hình phạt đảm bảo trừng trị và giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa các bị cáo phạm tội mới; giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.

[4] Về vật chứng của vụ án: Tịch thu tiêu hủy: Số vỏ bì niêm phong và mảnh nilon sau khi mở niêm phong. Đối với 0,38 gam Heroine đã gửi giám định toàn bộ, không hoàn lại mẫu vật nên không đề cập xử lý.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy hoàn cảnh gia đình của bị cáo Mào Văn Th khó khăn nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề liên quan:

+ Lý Văn S đi cùng Mào Văn Th mua Heroine. Tuy nhiên Lý Văn S không tham gia giúp sức cho Th trong quá trình đi, quá trình mua; quá trình cất giữ số Heroine còn lại sau sử dụng, nên Lý Văn S không đồng phạm với Thuân về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

+ Kết quả điều tra và tại phiên tòa không xác định được lai lịch người phụ nữ đã bán ma túy cho bị cáo Mào Văn Th vào ngày 17/11/2021, nên không có căn cứ xử lý theo quy định pháp luật.

+ Kết quả điều tra và tại phiên tòa xác định Lù Thị H, khi cho mượn xe mô tô, H không biết Th dùng vào việc phạm tội nên H không đồng phạm với Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại Điều 249 BLHS.

[7] Về án phí hình sự: Bị cáo Mào Văn Thuân phải chịu án phí hình sự sơ thẩm, gia đình bị cáo S thuộc hộ nghèo nên miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Văn Sinh theo quy định tại Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, của Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Mào Văn Th;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 390; điểm i, s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 47, của Bộ luật hình sự. Điều 106, Điều 135, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội đối với bị cáo Lý Văn S;

Tuyên bố bị cáo Mào Văn Th phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cáo Lý Văn S phạm tội: “Không tố giác tội phạm”.

Về hình phạt:

- Xử phạt bị cáo Mào Văn Th: 16 (Mười sáu) tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2021. Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

- Xử phạt bị cáo Lý Văn S 06 (Sáu) tháng tù được khấu trừ đi 09 ngày tạm giữ bị cáo còn phải chấp hành 05 (Năm) tháng 21 (Hai mươi mốt) ngày tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

2. Về vật chứng của vụ án: Tịch thu, tiêu hủy: Số vỏ bì niêm phong và mảnh nilon sau khi mở niêm phong. (Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 21/3/2022 giữa Công an huyện Nậm Nhùn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nậm Nh).

3. Về án phí: Bị cáo Mào Văn Th phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lý Văn S.

Các Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc Bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

401
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy và không tố giác tội phạm số 42/2022/HS-ST

Số hiệu:42/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nậm Nhùn - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;