Bản án 02/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (thuốc lắc)

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC HÒA, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 11/01/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 11 tháng 01 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 207/2023/TLST- HS ngày 05 tháng 12 năm 2023 theo Quyết Đ đưa vụ án ra xét xử số 212/2023/QĐXXST-HS ngày 22 tháng 12 năm 2023, đối với bị cáo:

Lê Xuân Đ, tên gọi khác: không có, sinh ngày 09/02/1987, tại Thành phố H; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 382/39A đường Lê Hồng P, Phường 1, Quận 10, Thành phố H; Chỗ ở: Khu phố K, thị trấn C, huyện C, tỉnh L; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa (học vấn): 03/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lê Xuân T, sinh năm 1953 (chết) và bà Nguyễn Thị M, sinh năm 1962 (sống); Có 03 người anh, chị, em ruột, lớn nhất sinh năm 1987, nhỏ nhất sinh năm 1993; Có vợ Mai Thị Ngọc C, sinh năm 1985; Có 02 con, lớn nhất sinh năm 2004, nhỏ nhất sinh năm 2011; Tiền án, tiền sự: Không. Nhân thân: Bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố H áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 15 tháng, đã chấp hành xong ngày 27/11/2020. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/9/2023 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đ, bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Trần Mậu Kh, sinh năm 1960; Địa chỉ: Số 35 đường số 1, cư xá Chu Văn An, khu phố 6, Phường 26, quận B, Thành phố H.

Người chứng kiến:

- Ông Đỗ Phi L, sinh năm 2005; Địa chỉ: Ấp N, xã Đ, huyện Đ, tỉnh L.

- Ông Nguyễn Hoàng Nh, sinh năm 1990; Địa chỉ: Ấp R, xã M, huyện Đa, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 14/9/2023, Lê Xuân Đ điều khiển xe mô tô của Đ nhãn hiệu: Honda, loại Wave, màu sơn: Bạc-đen, số máy: HC12E2671949, số khung: RLHHC1202AY171834, biển số 54S9-xxxx đi từ khu vực Quận 10, Thành phố H đến khu vực đường Cao Lỗ, Phường 4, Quận 8, Thành phố H gặp người phụ nữ tên V không xác Đ nhân thân lai lịch hỏi mua 550.000 đồng chất ma túy, V đồng ý và bán cho Đ 01 túi nylon rãnh kép viền xanh bên trong chứa chất ma tuý (dạng đá) và 01 túi nylon rãnh kép viền đỏ bên trong có 01 viên nén màu xanh là ma túy tổng hợp (dạng thuốc lắc). Đ trả tiền mua chất ma túy cho V xong và lấy 02 túi ny lon chứa chất ma túy cất giấu vào bên trong ngăn kéo phía ngoài của túi vải màu xanh nhãn hiệu D DIEKE đang mang trên người rồi điều khiển xe mô tô đi đến khu vực ấp R, xã M, huyện Đ, tỉnh L để tìm bạn tên Tuấn không xác Đ nhân thân lai lịch, nhưng không biết nhà của Tuấn nên Đ điều khiển xe mô tô đến khu vực ngã ba Giọng Hòa thuộc khu vực ấp R, xã M, huyện Đ, tỉnh L để chờ Tuấn đến đón. Trong lúc Đ đang chờ Tuấn thì bị lực lượng Công an xã M đến kiểm tra, phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ gồm:

- 01 túi nylon rãnh khép viền xanh bên trong chứa tinh thể màu trắng nghi là ma tuý (dạng đá).

- 01 túi nylon rãnh khép viền đỏ bên trong chứa 01 viên nén màu xanh nghi là ma túy tổng hợp (dạng thuốc lắc).

- 01 túi đeo vải đeo chéo màu xanh nhãn hiệu D DIEKE (đã qua sử dụng).

- 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave, màu sơn: Bạc-đen, số máy: HC12E2671949, số khung: RLHHC1202AY171834, biển số 54S9-xxxx.

Tại Kết luận giám Đ số 955/KL-KTHS ngày 18/9/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Long An, kết luận:

“Tinh thể màu trắng đựng trong 01 túi nylon có rãnh khép viền xanh được nêm phong gửi giám Đ là ma túy, có khối lượng: 0,4473 gam, loại: Methamphetamine.

Viên nén màu xanh đựng trong 01 túi nylon có rãnh khép viền đỏ được nêm phong gửi giám Đ là ma túy, có khối lượng: 0,3144 gam, loại: MDMA.” Tại bản cáo trạng số 205/CT-VKSĐH ngày 30 tháng 11 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hoà, tỉnh Long An truy tố bị cáo Lê Xuân Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự .

Tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân Đ thừa nhận hành vi phạm tội và hành vi phạm tội như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, tỉnh Long An tham gia phiên tòa vẫn giữ y quan điểm như Cáo trạng đã truy tố bị cáo về tội danh và điều luật, đồng thời phân tích, đánh giá tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Lê Xuân Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Lê Xuân Đ mức hình phạt từ 02 (hai) năm đến 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.

- Về tang vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử,

+ Tịch thu tiêu hủy: 0,3088 gam tinh thể màu trắng và vỏ bao gói mẫu được niêm phong số 955 và 01 túi vải đeo chéo màu xanh nhãn hiệu D DIEKE (đã qua sử dụng).

+ Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave, màu sơn: Bạc-đen, số máy: HC12E2671949, số khung: RLHHC1202AY171834, biển số 54S9-xxxx là phương tiện của bị cáo Lê Xuân Đ dùng để thực hiện hành vi phạm tội.

Đối với người phụ nữ tên V có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị cáo Đ nhưng không xác Đ được nhân thân, lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của Đ nên không có căn cứ xử lý.

Lời nói sau cùng của bị cáo Lê Xuân Đ: Bị cáo biết hành vi của bị cáo là sai và hối hận với hành vi phạm tội của mình, đề nghị hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết Đ tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đức Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy Đ của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết Đ của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết Đ tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Trần Mậu K và người chứng kiến ông Đỗ Phi L, Nguyễn Hoàng Nvắng mặt tại phiên tòa nhưng xét thấy trong giai đoạn điều tra đã thể hiện đầy đủ lời khai và ý kiến của đương sự này nên Hội đồng xét xử quyết Đ xét xử vắng mặt những người này theo quy Đ tại điều 292 Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Bị cáo Lê Xuân Đ khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, thể hiện: Khoảng 01 giờ 00 phút ngày 15/9/2023, tại khu vực ấp R, xã M, huyện Đ, tỉnh L, Lê Xuân Đ có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng: 0,4473 gam, loại: Methamphetamine và 0,3144 gam, loại: MDMA với mục đích để sử dụng. Hành vi nêu trên của bị cáo Lê Xuân Đ đủ yếu tố cấu thành tội “tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy Đ tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đức Hòa truy tố bị cáo về hành vi theo tội danh nêu /trên là đúng người, đúng tội và có căn cứ pháp luật.

[4] Xét, tính chất, mức độ nghiệm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình chính trị tại địa phương. Ma túy là hiểm họa của con người, cộng đồng và xã hội, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm nguy hiểm khác. Khi thực hiện hành vi, bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và ý thức được hành vi sử dụng trái phép chất ma túy và hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn tàng trữ để sử dụng, điều này thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo.

Vì vậy cần phải xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc mới tương xứng với hành vi phạm tội, cách ly khỏi xã hội một thời gian đủ để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.

[5] Về các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo Lê Xuân Đ không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Lê Xuân Đ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình đây là tình tiết giảm nhẹ quy Đ tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[7] Về hình phạt bổ sung: Theo quy Đ tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 xét thấy theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo tàng trữ ma túy nhằm mục đích để sử dụng, thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không nhằm mục đích thu lợi bất chính. Do đó, Hội đồng xét xử quyết Đ không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[8] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Đối với mẫu vật còn lại sau giám Đ có khối lượng: 0,3088 gam tinh thể màu trắng và vỏ bao gói mẫu được niêm phong số 955 ngày 18/9/2023 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Long An và 01 túi vải đeo chéo màu xanh nhãn hiệu D DIEKE (đã qua sử dụng), không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave, màu sơn: Bạc-đen, số máy: HC12E2671949, số khung: RLHHC1202AY171834, biển số 54S9-xxxx, xét thấy đây là phương tiện Lê Xuân Đ dùng để thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung ngân sách nhà nước.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo Lê Xuân Đ không có thu lợi bất chính từ việc thực hiện hành vi phạm tội nên không đề cập, xem xét.

[10] Đối với người phụ nữ tên V có hành vi bán trái phép chất ma túy cho bị can Đ nhưng không xác Đ được nhân thân, lai lịch, chỉ có lời khai duy nhất của Đ, không có căn cứ xử lý nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

[11] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy Đ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Xuân Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật Hình sự;

Xử phạt: Bị cáo Lê Xuân Đ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù kể từ ngày 15/9/2023.

2. Áp dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiếp tục tạm giam bị cáo Lê Xuân Đ 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (11/01/2024) để đảm bảo thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, - Tịch thu tiêu hủy: Mẫu vật còn lại sau giám Đ có khối lượng: 0,3088 gam tinh thể màu trắng và vỏ bao gói mẫu được niêm phong số 955 ngày 18/9/2023 của Phòng kỷ thuật hình sự Công an tỉnh Long An và 01 túi vải đeo chéo màu xanh nhãn hiệu D DIEKE (đã qua sử dụng).

- Tịch thu sung ngân sách nhà nước: 01 xe mô tô hiệu Honda, loại Wave, màu sơn: Bạc-đen, số máy: HC12E2671949, số khung: RLHHC1202AY171834, biển số 54S9-xxxx.

Các vật chứng trên do Chi cục thi hành án dân sự huyện Đức Hòa, tỉnh Long An đang quản lý theo Biên bản giao nhận vật chứng số 41-04/12/2023 ngày 04 tháng 12 năm 2023.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy Đ về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án buộc bị cáo Lê Xuân Đ phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Án xử sơ thẩm công khai. Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

117
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 02/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy (thuốc lắc)

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Hòa - Long An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;