Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số14/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NHÀ BÈ, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 14/2021/HS-ST NGÀY 23/03/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 03 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 03/2021/TLST- HS ngày 20 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 54/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 3 năm 2021, đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh Tr, sinh năm 1993, tại tỉnh Tiền Giang; Đăng ký HKTT: S, Khu phố 3, phường An Phú Đông, Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hóa: 9/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Giới tính: Nam; Con ông Đặng Văn U và bà Nguyễn Thị Huệ Nh; Vợ, con: không;

Tiền án: Bản án số 251/2019/HS-ST ngày 13/9/2019 của TAND quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/4/2020 Tiền sự: không;

Nhân thân: Ngày 19/01/2012, UBND Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh 24 tháng.

Ngày 26/01/2015, TAND Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 24 tháng Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 17/10/2020 đến nay (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 17/10/2020, Tr điều khiển xe mô tô biên số 52N3-xxxx chở bạn là Phạm Trọng Kh đi tìm chỗ cầm cố chiếc điện thoại của Kh nhưng không tìm được chỗ cầm. Tr tiếp tục chở Kh đến đầu hẻm 642 đường 3 tháng 2 thuộc Phường 12, Quận 10, TP Hồ Chí Minh, Tr dừng xe nói Kh ở lại giữ xe còn Tr một mình đi bộ vào hẻm mua ma túy của một người phụ nữ tên Nam (không rõ nhân thân, lai lịch) với số tiền 1.000.000đ. Sau khi mua ma túy, Tr quay lại chỗ Kh ngồi đợi rồi lên xe Kh điều khiển chở về nhà trọ của Kh ở ấp 3, xã Long Hậu, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Trên đường về nhà Kh , khi đi đến trước trước số nhà 3/15B L, tổ 3, ấp 2, xã Đ, huyện Nhà Bè thì bị Công an huyện Nhà Bè kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Tr đang tàng trữ ma túy.

Kết luận giám định số 1828 ngày 23/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: “Tinh thể không màu được ký hiệu mẫu m cần giám định (tinh thể không màu trong một gói nylon được niêm phong bên ngoài có chữ ký Nguyễn Minh Tr và hình dấu Công an xã Đ, huyện Nhà Bè) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 2,5819g, loại Methamphetamine”.

Tại bản Cáo trạng số 07/CT-VKS-NB ngày 18/01/2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, truy tố bị cáo Nguyễn Minh Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố giữ nguyên Cáo trạng truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điềm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Tr mức án từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự. Tịch thu tiêu hủy 2,4745 gam ma túy thể rắn, loại Methamphetamine;

Tịch thu thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Itel.

Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Samsung.

Bị cáo nhận tội và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mà không có ý kiến tranh luận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Xét tính hợp pháp của hành vi, quyết định tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Nhà Bè, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố Tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét hành vi phạm tội: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội đúng như nội dung bản Cáo trạng truy tố. Lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung Biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ và các tài liệu chứng cứ khác có tại hồ sơ được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: Khoảng 11 giờ 15 phút ngày 17/10/2020, trước khu vực số nhà 3/15B L, xã Đ, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh, Nguyễn Minh Tr đang tàng trữ trái phép 2,5819g ma túy Methamphetamine, mục đích để sử dụng thì bị Công an huyện Nhà Bè phát hiện bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[3] Xét tính chất vụ án và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tội phạm thuộc loại nghiêm trọng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Bị cáo hoàn toàn nhận thức được hành vi cất giữ ma túy để sử dụng bị nhà nước nghiêm cấm nhưng do thiếu bản lĩnh, không làm chủ được bản thân nên đã đi vào con đường phạm tội. Bị cáo có nhân thân xấu, đã từng bị đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc và đã có một tiền án chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm, bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện bản thân mà tiếp tục đi vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần xử phạt nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, cũng cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì quá trình điều tra và tại phiên tòa khai báo thành khẩn.

[4] Về hình phạt bổ sung: Đối với loại tội phạm này ngoài hình phạt chính còn có thể áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng xét bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[5] Về xử lý vật chứng: Khối lượng ma túy thu giữ của bị cáo sau khi lấy mẫu giám định, khối lượng còn lại 2.4745 gam là vật cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy;

01 chiếc điện thoại di động hiệu Itel màu đen bị cáo sử dụng liên lạc mua ma túy, là vật chứng của vụ án nên cần tịch thu sung vào ngân sách nhà nước.

01 điện thoại di động hiệu Samsung màu vàng không phải là vật chứng của vụ án nên cần trả lại cho bị cáo.

Đối với chiếc xe mô tô biên số 52N3-xxxx, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Nhà Bè xác định chủ sở hữu là bà Nguyễn Thị Huệ Nh nên đã trả lại cho bà Nh.

[6] Đối với người tên Năm bán ma túy cho Tr do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan điều tra Công an huyện Nhà Bè tiếp tục làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau.

[7] Đối với Phạm Trọng Kh , không biết được việc Tr mua và tàng trữ ma túy nên không phạm tội.

[8] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Tr 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17/10/2020.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự.

Tịch thu tiêu hủy tinh thể không màu có khối lượng 2,4745g được niêm phong có chữ ký của giám định viên và cán bộ điều tra ký hiệu (1828/20 Nhà Bè).

Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Itel màu đen IMEI 1: 351980103150320, IMEI 2: 351980103150338;

Trả lại cho bị cáo Nguyễn Minh Tr 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, IMEI 1: 352212080461655, IMEI 2: 352213080461653.

(Toàn bộ vật chứng có tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh theo phiếu nhập kho số 2021-NK14 ngày 11 tháng 01 năm 2021) Về án phí: Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Minh Tr phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

31
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số14/2021/HS-ST

Số hiệu:14/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nhà Bè - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;