Bản án 99/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ N, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 99/2024/HS-ST NGÀY 25/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố N tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 77/2024/TLST-HS ngày 25 tháng 3 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 77/2024/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 4 năm 2024 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn Ch; sinh năm 1984 tại tỉnh Đ; đăng ký thường trú: thôn H, xã M, huyện M1, tỉnh Đ; nơi ở hiện tại: số nhà 395 đường T, phường L, thành phố N, tỉnh Đ; nghề nghiệp: tự do; trình độ học vấn: lớp 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần Văn Th và bà: Trần Thị D; có vợ và 02 con; tiền án, tiền sự: không; nhân thân: ngày 13-11-2006 Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa tỉnh Đ xử phạt 22 tháng tù về các tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, ngày 27-8-2009 Tòa án nhân dân huyện M tỉnh Đ xử phạt 36 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, ngày 28-4-2017 Tòa án nhân dân thành phố Đ xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (đã được xóa án tích); bị bắt, tạm giữ ngày 15-01-2024, chuyển tạm giam ngày 24-01-2024; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 14-01-2024, tổ công tác Công an phường Lộc H, thành phố N làm nhiệm vụ tại khu vực trước cửa số nhà 401 đường Th phường Lộc H thành phố N phát hiện Trần Văn Ch đang đi bộ có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra, thu giữ trong tay phải của Ch 01 túi nilông màu trắng kích thước khoảng (4 x 6,2)cm, bên trong có 03 viên nén màu trắng hình chữ nhật (Ch khai là 03 viên ma túy tổng hợp mua về để sử dụng). Tổ công tác niêm phong vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn Ch.

Bản Kết luận giám định số 319/KL-KTHS ngày 20-01-2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ kết luận: Mẫu gồm 03 viên nén màu trắng hình chữ nhật đựng trong 01 túi ni lông màu trắng kích thước khoảng (4 x 6,2) cm, được niêm phong gửi giám định đều là ma túy; loại ma túy: MDMA; tổng khối lượng mẫu 1,275 (một phảy hai trăm bảy mươi lăm) gam.

Tại Cơ quan điều tra, Trần Văn Ch khai: Khoảng 22 giờ 40 phút ngày 14-01- 2024, Ch đi bộ từ nhà đến khu vực đường đê sông Đ, đoạn đối diện số nhà 495 đường Th phường L thành phố Đ gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch, địa chỉ) mua 03 viên ma túy tổng hợp đựng trong túi ni lông màu trắng với giá 600.000 đồng cầm túi ma túy trong tay phải đi tìm chỗ sử dụng thì bị phát hiện, bắt giữ.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố N phối hợp với Công an phường L thành phố N tiến hành kiểm tra, rà soát đối tượng (là người đã bán ma túy cho Ch) tại khu vực đường đê sông Đào, đoạn đối diện số nhà 495 đường Thái Bình phường Lộc Hạ thành phố Đ. Kết quả xác minh không có đối tượng nào có đặc điểm như Trần Văn Ch khai nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố N tách ra để điều tra, xử lý sau.

Bản Cáo trạng số 84/CT-VKSTPNĐ ngày 25-3-2024 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N truy tố Trần Văn Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn Ch khai nhận hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy mục đích để sử dụng như nội dung bản Cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố N giữ quyền công tố tại phiên tòa luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo theo toàn bộ nội dung bản Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt bị cáo từ 27 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo; căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 để xử lý vật chứng.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn Ch không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về trách nhiệm hình sự: Căn cứ lời khai của bị cáo Trần Văn Ch, biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định số 319/KT- KTHS ngày 20-01- 2024 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đ và các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đã có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 23 giờ ngày 14-01- 2024, tại khu vực trước cửa số nhà 401 đường Th phường L thành phố N, Trần Văn Ch đã có hành vi tàng trữ trái phép 1,275 gam MDMA mục đích để sử dụng. Bị cáo có năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo đã xâm phạm ch ế độ độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước, lỗi của bị cáo là lỗi cố ý . Do đó, bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại quy định điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N là có căn cứ.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo: Để thỏa mãn nhu cầu của bản thân, bị cáo đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là loại chất gây nghiện Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành; hành vi của bị cáo là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tệ nạn ma túy, gây mất trật tự an toàn xã hội . Bị cáo có nhân thân xấu, đã 03 lần bị kết án (đã được xóa án tích). Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình; do đó được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Hội đồng xét xử xét thấy cần phải áp dụng hình phạt, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm Ch.

[4] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về biện pháp tư pháp: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015: Số ma túy sau khi giám định hoàn lại là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy.

[6] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo, tài liệu điều tra chưa đủ căn cứ xác định nên Cơ quan điều tra tách ra tiếp tục điều tra, xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

[7] Về án phí: Bị cáo Trần Văn Ch phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội:

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 15-01-2024.

2. Biện pháp tư pháp: Tịch thu, tiêu hủy số ma túy trong phong bì niêm phong số 319/KL-KTHS (chi tiết vật chứng ghi trong biên bản giao nhận vật chứng).

3. Án phí: Bị cáo Trần Văn Ch phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Trần Văn Ch được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

95
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 99/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:99/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;