Bản án về tội tàng trừ trái phép chất ma túy số 99/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐIỆN BIÊN PHỦ, TỈNH ĐIỆN BIÊN

BẢN ÁN 99/2022/HS-ST NGÀY 18/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỪ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 5 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 98/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 100/2022/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lò Văn L. Tên gọi khác: Không; sinh năm 1968, tại: Điện Biên. Nơi ĐKHKTT: Bản P, xã Th, huyện Đ, tỉnh Điện Biên. Nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ học vấn: 7/10; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lò Văn Kh (đã chết) và con bà: Lò Thị Đ (đã chết); Bị cáo có vợ là Tòng Thị T và có 03 con, con lớn nhất sinh năm 1988, con nhỏ sinh năm 1994; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Chưa bị kết án, năm 2010 bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc. Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 03/12/2021, sau đó tạm giam đến nay, có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 11 giờ 40 phút ngày 03/12/2021, tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma tuý Công an thành phố Điện Biên Phủ đi làm nhiệm vụ tại khu vực tổ dân phố 7, phường Nam Th, thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên đã phát hiện và bắt quả tang Lò Văn L đang có hành vi cất giấu dưới yên xe máy điện do L điều khiển 01 gói nilon màu hồng, tiếp đến là túi nilon màu xanh, loại có mép dính, bên trong có chứa 188 viên nén màu hồng nghi là chất ma tuý loại Methamphetamine. Tổ công tác đã đưa L về trụ sở Công an thành phố Điện Biên Phủ để lập biên bản bắt giữ người phạm tội quả tang và tiến hành niêm phong toàn bộ vật chứng.

Quá trình điều tra Lò Văn L khai nhận toàn bộ 188 viên nén màu hồng đã bị thu giữ là Methamphetamine. Nguồn gốc số Methamphetamine này là do L mua được của một người đàn ông không quen biết ở đồi thuộc bản Púng Nghịu, xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên vào ngày 29/11/2021, với giá 800.000 đồng, mục đích mua về là để sử dụng cho bản thân. Quá trình cất giấu tại nhà, L đã sử dụng hết 08 viên. Ngày 03/12/2021 L cất giấu số ma tuý còn lại vào dưới yên xe máy điện rồi đi đến nhà con trai chơi, trên đường đi thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ cùng toàn bộ vật chứng.

Tại biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định và niêm phong vật chứng ngày 03/12/2021 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Kết luận giám định số: 1315/GĐ-PC09 ngày 11/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Điện Biên đã xác định số vật chứng thu giữ của Lò Văn L là ma túy, loại Methamphetamine có khối lượng 17,68 gam.

Tại bản Cáo trạng số 47/CT-VKSTPĐBP ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ đã truy tố bị cáo Lò Văn L về tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy", đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Lò Văn L từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự: Tịch thu tiêu huỷ 01 mảnh nilon màu hồng, 01 túi nilon màu xanh, loại có mép dính và 13,9 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi đã gửi giám định. Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, hoàn toàn nhất trí với bản Cáo trạng và luận tội của Kiểm sát viên.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo để bị cáo sớm được về với gia đình và cộng đồng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Ngày 03/12/2021, bị cáo Lò Văn L đã bị bắt quả tang trong khi đang cất giữ trái phép 17,68 gam Methamphetamine, mục đích để sử dụng cho bản thân, ngoài ra không nhằm mục đích nào khác. Lời khai nhận tội của bị cáo trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay là hoàn toàn phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ và vật chứng đã thu giữ. Vì vậy, với khối lượng ma tuý mà bị cáo đã cất giữ trái phép thì hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên truy tố bị cáo là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Bị cáo thực hiện tội phạm do lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo đơn giản, chỉ do nghiện ma túy nên đã đi mua và cất giữ trái phép ma túy để sử dụng cho bản thân. Hành vi đó của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự trị an, an toàn trong xã hội.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Theo hồ sơ vụ án thể hiện ngày 03/11/2002, bị cáo bị tạm giữ về hành vi Mua bán trái phép chất ma tuý, nhưng ngày 04/11/2002 có quyết định huỷ bỏ biện pháp tạm giữ với lý do: “việc điều tra, xác minh đối với Lò Văn L và đối tượng liên quan đã rõ”, ngoài ra không có tài liệu nào khác thể hiện việc xử lý đối với bị cáo về hành vi này, vì vậy không có căn cứ để xem xét, đánh giá về nhân thân của bị cáo. Năm 2010 bị cáo đã bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm chữa bệnh - Giáo dục - Lao động xã hội tỉnh Điện Biên, tiền sự này của bị cáo mặc dù đến nay đã được xoá, nhưng đây là tình tiết để xem xét về nhân thân khi lượng hình đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo; bố đẻ bị cáo là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, anh trai bị cáo là Liệt sỹ, vì vậy bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Hướng xử lý đối với bị cáo: Sau khi xem xét về hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Bị cáo là người sử dụng ma túy nhiều năm, để bị cáo có thời gian cai nghiện ma tuý thì cần phải áp dụng một mức hình phạt tù có thời hạn, phù hợp với tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra. Xét thấy đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa về áp dụng hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ nên cần được chấp nhận.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung bằng hình thức phạt tiền, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản. Tuy nhiên, bản thân là người nghiện ma túy đã nhiều năm, thu nhập chủ yếu bằng nghề làm ruộng nên khó có khả năng thi hành. Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Vật chứng: Số Methamphetamine đã thu giữ của bị cáo có khối lượng là 17,68 gam (đã gửi giám định toàn bộ và hoàn lại 13,9 gam sau khi giám định). Đây là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và 01 mảnh nilon màu hồng; 01 túi nilon màu xanh, loại có mép dính cần bị tịch thu tiêu huỷ theo điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự thì bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, nhưng bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở bản có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn. Mặc dù bị cáo không có đơn xin miễn án phí, nhưng tại phiên toà bị cáo đã có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn án phí cho bị cáo. Vì vậy, căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Hội đồng xét xử chấp nhận ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

[8] Vấn đề khác: Bị cáo khai nguồn gốc số ma túy bị thu giữ là do bị cáo mua được của một người không quen biết, Cơ quan Điều tra không có cơ sở để điều tra làm rõ. Vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

Chiếc xe máy điện nhãn hiệu DTD BIKE, màu sơn đen - đỏ, không có biển kiểm soát, số khung: RNKYHDGUMGDE951524, số máy: 48V24OW0988003528, bị cáo đã sử dụng để cất giấu ma tuý, nhưng quá trình điều tra đã xác định, đây là tài sản riêng của vợ bị cáo (được con trai tặng cho riêng vào ngày sinh nhật). Khi bị cáo hỏi mượn xe của vợ để đi đến nhà con trai chơi, vợ bị cáo không biết việc bị cáo đã sử dụng xe để cất giấu ma tuý. Cơ quan Điều tra đã xác định vợ bị cáo không có lỗi trong việc để cho bị báo sử dụng xe vào việc phạm tội nên đã trả lại cho vợ bị cáo là phù hợp theo quy định tại khoản 3 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử chấp nhận.

[9] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Điện Biên Phủ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Điện Biên Phủ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Điều 38 Bộ luật Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 331 và 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

1. Tuyên bố: Bị cáo Lò Văn L phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma tuý" 2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Lò Văn L 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/12/2021.

3. Xử lý vật chứng:

- Tịch thu tiêu huỷ 01 mảnh nilon màu hồng; 01 túi nilon màu xanh, loại có mép dính và 13,9 gam Methamphetamine là vật chứng còn lại của vụ án sau khi đã gửi giám định.

Vật chứng đã được Công an thành phố Điện Biên Phủ bàn giao sang Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Điện Biên Phủ ngày 21/4/2022.

4. Án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 18/5/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

37
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trừ trái phép chất ma túy số 99/2022/HS-ST

Số hiệu:99/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;