Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 98/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 98/2022/HS-ST NGÀY 29/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 29/9/2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 91/2022/HSST ngày 31/8/2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXXST-HS ngày 15/9/2022 đối với:

- Bị cáo: họ và tên Phạm Văn T, sinh năm 1997, tại huyện K, tỉnh Ninh Bình; nơi cư trú: Xóm 5, xã Đ, huyện K, tỉnh Ninh Bình; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: công giáo; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn T1 và bà Trần Thị T2; có vợ, con: chưa có; tiền án, tiền sự: không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 10/6/2022, chuyển tạm giam ngày 17/6/2022 tại Trại tạm giam Công an tỉnh Ninh Bình cho đến nay (có mặt).

- Người làm chứng: anh Phạm Văn K, anh Nguyễn Minh Đ, chị Nguyễn Thị Ngọc A (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phm Văn T là đối tượng sử dụng trái phép chất ma túy. Sáng ngày 10/6/2022, Tú điều khiển xe máy nhãn hiệu Deahanikd BKS 35AA – 014.91 từ nhà đến khu vực bãi cát giáp đê sông Vạc thuộc xóm 4, xã T tìm mua ma túy để sử dụng cho bản thân. Tại đây, T mua được của người thanh niên không quen biết 01 gói ma túy được gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ với giá 500.000 đồng, T cầm ở tay trái sau đó điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Đến 09 giờ 50 phút cùng ngày, khi T đi đến khu vực đường đê sông Vạc (đối diện cổng Nhà máy nước) thuộc phố T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Ninh Bình thấy vắng người nên dừng lại định mở gói ma túy ra sử dụng thì bị Tổ công tác của Công an huyện K phối hợp với Công an thị trấn P đang làm nhiệm vụ kiểm tra, phát hiện bắt quả tang. Thu giữ trên tay trái T 01 gói nhỏ được gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ và xe máy BKS 35AA - 01491.

Tiến hành mở niêm phong gói nhỏ thu giữ của T được gói ngoài là giấy trắng có dòng kẻ bên trong là chất bột dạng cục màu trắng có khối lượng 0,23 gam (ký hiệu M), để trưng cầu giám định.

Ti kết luận giám định số 444/KL-KTHS-MT ngày 16/6/2022 của phòng KTHS - Công an tỉnh Ninh Bình kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng gửi giám định kí hiệu M có khối lượng 0,2256 gam là ma túy, loại Heroine.

Bn Cáo trạng số 99/CT-VKS ngày 30/8/2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phạm Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát huyện K vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng và đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Văn T từ 15 đến 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 10/6/2022. Về xử lý vật chứng: áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: tịch thu tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 444 bên trong có vật chứng còn lại sau giám định M = 0,1912 gam Heroine và toàn bộ vỏ giấy gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong có vỏ gói là giấy trắng có dòng kẻ và phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ vật chứng của Phạm Văn T. Về án phí: áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, buộc bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận đã thực hiện toàn bộ hành vi nêu trên và không có ý kiến gì khác, không tranh luận với luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm một phần hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, tội danh và điều luật áp dụng: tại phiên tòa bị cáo khai nhận do có nhu cầu sử dụng ma túy nên sáng ngày 10/6/2022, bị cáo điều khiển xe máy từ nhà đến khu vực bãi cát giáp đê sông Vạc thuộc xóm 4, xã T, huyện K, tỉnh Ninh Bình tìm mua ma túy và mua được 01 gói ma túy gói ngoài bằng giấy trắng có dòng kẻ với giá 500.000 đồng. Sau đó, bị cáo cầm gói ma túy ở tay trái và điều khiển xe đi tìm nơi sử dụng. Đến khoảng 09 giờ 50 phút cùng ngày, khi đến khu vực đê sông Vạc thuộc phố T, thị trấn P, huyện K, tỉnh Ninh Bình, bị cáo dừng xe định mở gói ma túy ra xem thì bị Tổ công tác Công an huyện K phát hiện bắt quả tang, thu giữ của bị cáo 01 gói ma túy mà bị cáo vừa mua; 01 xe máy BKS 35AA - 014.91. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản thu giữ và niêm phong vật chứng, Biên bản cân xác định khối lượng, Kết luận giám định gói bột thu giữ của bị cáo và lời khai của người làm chứng đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép 0,2256gam ma túy, loại Heroine để sử dụng cho bản thân là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất gây nghiện, nhưng vẫn cố ý thực hiện, hành vi đó gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự ở địa phương. Do đó, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm :

c, Heroine, Cocaine, Heroine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.

Từ sự phân tích nêu trên, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở khẳng định bị cáo Phạm Văn T đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như đã được viện dẫn. Do vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Về nhân thân: bị cáo không có tiền án, tiền sự.

Về tình tiết tăng nặng: không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Hi đồng xét xử xét thấy, sau khi đối chiếu về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nguyên nhân và điều kiện phạm tội của bị cáo, thì hành vi phạm tội của bị cáo là nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm minh trước pháp luật bằng hình thức cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội.

[3] Về hình phạt bổ sung: Hội đồng xét xử xét thấy, bị cáo không có tài sản riêng, hành vi phạm tội của bị cáo chỉ nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu cá nhân, không mang tính chất vụ lợi. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về nguồn gốc số ma túy loại Heroine: bị cáo khai mua của một người đàn ông không quen biết ở khu vực bãi cát giáp đê sông Vạc thuộc xóm 4, xã T, huyện K, bị cáo không quen biết người đó, có gặp lại cũng không nhận dạng được. Vì vậy, cơ quan điều tra Công an huyện K không đủ cơ sở để điều tra.

[5] Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đi với 01 xe máy BKS 35AA-014.91, đăng ký xe mang tên bà Nguyễn Thị N, sinh năm 1968; nơi cư trú: xóm Đồi Y, xã Y, huyện Y, tỉnh Ninh Bình. Bà N đã bán chiếc xe trên cho một người không quen biết. Bị cáo khai mượn chiếc xe trên của chị Nguyễn Thị Ngọc A, sinh năm 2002; nơi cư trú: xóm 9, xã Đ, huyện K. Chị A cho biết chiếc xe trên là của bà Vũ Thị T3, sinh năm 1982 (mẹ chị A), hiện bà T3 không có mặt tại địa phương nên Cơ quan CSĐT - Công an huyện K đã tách phần tài liệu có liên quan và chiếc xe trên để tiếp tục điều tra xử lý là đúng quy định của pháp luật.

Đi với 01 phong bì niêm phong ghi số 444 bên trong có vật chứng còn lại sau giám định M = 0,1912 gam ma túy loại Heroine và toàn bộ vỏ giấy gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong có vỏ gói là giấy trắng có dòng kẻ và phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ vật chứng của Phạm Văn T. Đây là vật cấm lưu hành và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu cho tiêu hủy.

[6] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[7] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn T 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ bị cáo là ngày 10/6/2022.

2. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: tịch thu cho tiêu hủy 01 phong bì niêm phong ghi số 444 bên trong có vật chứng còn lại sau giám định M = 0,1912 gam Heroine và toàn bộ vỏ giấy gói trong gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong có vỏ gói là giấy trắng có dòng kẻ và phong bì niêm phong ban đầu khi thu giữ vật chứng của Phạm Văn T.

(Chi tiết vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 31/8/2022 giữa cơ quan CSĐT công an huyện K với Chi cục THADS huyện K) 3. Về án phí: buộc bị cáo Phạm Văn T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 98/2022/HS-ST

Số hiệu:98/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kim Sơn - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;