Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 98/2022/HS-ST NGÀY 21/04/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 4 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 94/2022/TLST-HS ngày 17 tháng 3 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 88/2022/QĐXXST- HS ngày 01 tháng 4 năm 2022, Quyết định hoãn phiên toà số 145/2022/HSST-QĐ ngày 13 tháng 4 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Cầm Văn L - Sinh năm 1976; Nơi ĐKHKTT và nơi ở: bản C, xã C, huyện S, tỉnh Sơn La; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Trình độ giáo dục phổ thông: 8/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ, đảng phái: Không; Con ông Cầm Văn C (đã chết), con bà Vì Thị L (đã chết); Bị cáo có vợ nhưng đã chết và có 01 con sinh năm 2003.

Tiền án: Ngày 12/8/2016 bị TAND huyện Sông Mã xử phạt 7 năm tù giam về tội Mua bán trái phép chất ma túy; Tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 20/12/2021 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 30 phút ngày 20/12/2021 tổ công tác Công an xã Chiềng Khương, huyện Sông Mã tiến hành rà soát người nghiện ma túy trên địa bàn xã, khi tổ công tác đến nhà L, L thừa nhận vừa sử dụng ma túy, tổ công tác yêu cầu L giao nộp đồ vật có liên quan đến vi phạm pháp luật nên L đã tự nguyện lấy từ trên vách bếp bằng tre ra giao nộp 01 gói nilon màu hồng bên trong chứa 17 viên nén hình tròn màu hồng (L khai nhận là Hồng phiến), tổ công tác lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong vật chứng theo quy định.

Ngày 21/12/2021 tại Công an huyện Sông Mã tiến hành mở niêm phong cân tịnh xác định khối lượng vật chứng nghi là ma túy, kết quả: 17 viên nén hình tròn có khối lượng là 1,58 gam, trích 02 viên có tổng khối lượng 0,17 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu L1, vật chứng còn lại 15 viên có tổng khối lượng 1,41 gam ký hiệu L.

Tại Kết luận giám định số 95 ngày 24/12/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu L1 là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,17 gam. Tổng khổi lượng ma túy thu giữ là 1,58 gam, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra Cầm Văn L khai nhận: Khoảng 17 giờ 30 phút ngày 19/12/2021 L đi xem ruộng của gia đình tại khu vực nghĩa trang bản Chiềng Khương, khi đi L mang theo số tiền 300.000đ, trên đường đi L gặp một người đàn ông người Lào không quen biết đang đi bộ trên đường, người này hỏi L có mua hồng phiến không, L nói có nên người này lấy từ trong người ra đưa cho L 01 gói nilon màu hồng bên trong có chứa nhiều viên hồng phiến và nói bán giá 300.000đ, L lấy tiền ra đưa cho người này và nhận gói hồng phiến rồi đi bộ về, đến nhà L cất giấu gói ma túy ở vách nhà bếp của gia đình, sáng ngày 20/12/2021 L lấy gói ma túy ra đếm thấy có 19 viên, L lấy 02 viên ra sử dụng, 17 viên còn lại L gói và cất giấu vào vị trí cũ, đến khoảng 11 giờ cùng ngày thì tổ công tác Công an xã Chiềng Khương đến để test thử ma túy, L đã thừa nhận vừa sử dụng ma túy, sau đó đã lấy số hồng phiến đang cất giấu giao nộp cho tổ công tác.

Tại Cáo trạng số 25/CT- VKSSM ngày 16 tháng 3 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử Cầm Văn L về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với người đàn ông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án.

Tại phiên tòa kiểm sát viên thực hành quyền công tố phát biểu quan điểm luận tội, sau khi phân tích nội dung vụ án, các tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra cũng như diễn biến tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Cầm Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

n cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 36 - 42 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Áp dụng Điêù 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại và các vật chứng liên quan.

Buộc bị cáo chịu án phí. Tuyên quyền kháng cáo cho bị cáo.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát, khi được nói lời sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi, vẫn giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Sông Mã, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì làm thay đổi nội dung của vụ án và hoàn toàn nhất trí với nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã. Bị cáo khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện, đúng với sự việc đã thực hiện.

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội của tang lập ngày 20/12/2021; Vật chứng bị thu giữ; Kết luận giám định số 95 ngày 24/12/2021; Các biên bản ghi lời khai, biên bản hỏi cung đối với bị cáo về thời gian, địa điểm, diễn biến việc thực hiện hành vi phạm tội; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng và phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 19/12/2021 Cầm Văn L có hành vi cất giấu 1,58gam ma tuý, loại chất Methamphetamine mục đích để sử dụng thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy - Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố và Tòa án nhân huyện Sông Mã xét xử bị cáo là chính xác, đúng người, đúng tội, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật, không oan sai cho bị cáo.

[3] Về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 12/8/2016 bị cáo bị Toà án nhân dân huyện Sông Mã xử phạt 7 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Sau khi được cơ quan chức năng động viên bị cáo đã tự giác giao nộp số ma tuý đang cất giấu; Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải - là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm r, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ, khối lượng ma túy bị cáo tàng trữ để quyết định một mức hình phạt phù hợp.

[5] Về hình phạt bổ sung: Cơ quan điều tra đã làm rõ gia đình bị cáo không có tài sản gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại và các vật chứng liên quan cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Vấn đề khác liên quan đến vụ án: Đối với người đàn ông bị cáo khai nhận bán ma túy cho bị cáo, quá trình điều tra do không biết tên, tuổi địa chỉ cụ thể nên Cơ quan cảnh sát điều tra không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định.

[9] Về đề nghị của Kiểm sát viên: Đề nghị của Kiểm sát viên về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt và các vấn đề liên quan khác là phù hợp, nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm r, s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự:

- Tuyên bố: Bị cáo Cầm Văn L phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Cầm Văn L 36 (ba mươi sáu) tháng tù - Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2021.

- Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a, c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự;

điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy:

+ 1,41 gam Methamphetamine.

+ 01 mảnh Nilon màu hồng.

+ 01 túi Nilon (túi chứa 1,41 gam Methamphetamine).

+ 01 phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở.

(các vật chứng được đựng trong phong bì niêm phong, giấy dán niêm phong có mã số 029638).

Theo Quyết định chuyển vật chứng 23/QĐ-VKSSM ngày 16/3/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã và Biên bản giao nhận vật chứng ngày 17/3/2022 giữa Công an và Chi cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Các Điều 21, 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

Buộc bị cáo chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 21/4/2022)./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2022/HS-ST

Số hiệu:98/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;