Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2021/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 98/2021/HS-ST NGÀY 13/01/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 01 năm 2021, tại Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 109/2020/ HSST ngày 11 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 107/2020/QĐXXST-HS ngày 31 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Bị cáo Lê Văn H , sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn PVN, thị trấn BS, huyện HH, tỉnh TH.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Lê Văn P , sinh năm 1969 và bà Lê Thị V , sinh năm 1965; Vợ: Nguyễn Thị H , sinh năm 1992; Có 02 con, lớn sinh năm 2014 con nhỏ sinh năm 2017;

Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 28/8/2017 bị TAND huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 17/10/2019; Nhân thân: Ngày 04/7/2014 bị Công an phường Tào Xuyên, TP. Thanh Hóa xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/9/2020 hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt)

2. Bị cáo Hoàng Văn H , sinh năm 1985.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn TL, xã HĐ, huyện HH, tỉnh TH.

Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: không; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Hoàng Văn H (đã chết) và bà Hoàng Thị P sinh năm 1960; Vợ: Nguyễn Thị H , sinh năm 1985; Có 01 con sinh năm 2010 Tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 18/01/2017 bị TAND huyện Hoằng Hóa , tỉnh Thanh Hóa áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc thời hạn 24 tháng. Chấp hành xong ngày 11/01/2019; Nhân thân: Ngày 27/11/2006, Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản”.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 17/9/2020 hiện tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thanh Hóa (Có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 25/8/2020, tổ công tác Công an phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa là nhiệm vụ tuần tra tại khu vực đường đê Sông Mã thuộc phố Sơn Vạn, phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa phát hiện Lê Văn H1 đang điều khiển xe mô tô Wave Anpha, BKS36H8-3538, ngồi sau xe là Hoàng Văn H2 có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy nên yêu cầu kiểm tra. Tại thời điểm kiểm tra Lê Văn H tự giác giao nộp một gói nilon màu xanh kích thước 0,1 x 1,5cm bên trong là gói giấy trắng có dòng kẻ chứa chất bột màu trắng. H1 và H2 khai nhận đây là gói ma túy H1 và H2 góp tiền mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản, thu giữ vật chứng, chuyển Công an TP. Thanh Hóa gửi giám định theo quy định của pháp luật.

Kết luận giám định số 2340/PC09 ngày 31/8/2020 của Phòng kĩ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 0,121 gam, loại Herroin.

Tại cơ quan điều tra, Lê Văn H1 và Hoàng Văn H2 khai nhận: H1 và H2 đều là người nghiện ma túy, quen biết nhau từ trước. Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 25/8/2020, H1 và H2 gặp nhau tại trung tâm Methadone thị trấn Bút Sơn, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa nên rủ nhau và mỗi người góp 100.000đ để mua ma túy sử dụng. H1 điều khiển xe mô tô BKS 36H8-3538 chở H2 đi đến khu vực bờ đê Sông Mã (thuộc phố Xuân Minh, phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa) tìm mua ma túy. Tại đây H1 dừng xe để H2 đứng đợi, còn H1 cầm số tiền (200.000đ) mà H1 và H2 đã góp, đi bộ xuống chiếc thuyền đậu dưới Sông Mã hỏi mua được 01 gói Herroin với giá 200.000đ của một nam giới khoảng 25 tuổi H1 không rõ tên tuổi địa chỉ. Sau đó H1cầm gói ma túy quay lại chỗ H2 đang đợi rồi điều khiển xe mô tô chở H2 đi tìm nơi sử dụng. Khi H1 và H2 đi đến khu vực đê Sông Mã (thuộc phố Sơn Vạn) thì bị tổ công tác phát hiện và thu giữ tang vật.

Lời khai của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp các tài liệu chứng cứ thu thập trong quá trình điều tra vụ án.

Vật chứng vụ án: Hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án thành phố Thanh Hóa gồm: Một phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Thanh Hóa, có hình dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thanh Hóa kèm chữ ký, chữ viết của Nguyễn Trần Đăng, Lại Thị Thanh Loan, Vũ Huy Bình, Nguyễn Đức Thuận niêm phong số ma túy còn lại sau giám định; 01 xe máy Wave anpha, màu xanh, BKS số 36H8-3538, số khung: HC08012Y357660, số máy: HC08E0357800, xe không có gương hậu, không có hộp xích, xe không có mặt nạ trước và yếm, đèn xi nhan trước và sau đã vỡ, yên xe bị rách bong hư hỏng, không đóng được cốp xe. Tình trạng xe cũ, hư hỏng nhiều, theo “Biên bản giao nhận vật chứng” số 71/THA ngày 29/12/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

Đối với người H1khai đã bán ma túy cho H1, do H1 không biết tên tuổi địa chỉ người này, Cơ quan điều tra đã phối hợp với Công an phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa rà soát, xác minh nhưng không xác định được người thanh niên như H1 mô tả.

Đối với xe mô tô BKS 36H8-3538 mà các bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội, quá trình điều tra đã xác định giấy đăng ký xe mang tên chị Nguyễn Thị Dương, chị Dương đã bán cho Lê Văn H1 năm 2013.

Cáo trạng số 06/CTr-VKS -MT ngày 11/12/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố Lê Văn H1, Hoàng Văn H2 về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự, tuyên bố Lê Văn H1, Hoàng Văn H2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; xử phạt Lê Văn H1 từ 18 tháng đến 24 tháng tù; Xử phạt Hoàng Văn H2 từ 18 tháng đến 24 tháng tù;

Vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 2 điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự 2015, tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định, tịch thu nộp NSNN chiếc xe máy các bị cáo dùng làm phương tiện phạm tội;

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định pháp luật.

Bị cáo H1 và bị cáo H2 thừa nhận hành vi phạm tội, đề nghị HĐXX cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay các bị cáo Lê Văn H1, Hoàng Văn H2 khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với các tài liệu chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án. Căn cứ hành vi của bị cáo và kết quả giám định có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 11 giờ 30 phút ngày 25/8/2020, tại khu vực đường đê Sông Mã thuộc phố Sơn Vạn, phường Đông Hải, TP. Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa, Lê Văn H1, Hoàng Văn H2 đã có hành vi cất giữ trái phép 0,121 gam chất ma túy, loại Herroin, nhằm mục đích sử dụng.

Hành vi của các bị cáo đã cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Viện kiểm sát nhân dân TP. Thanh Hóa truy tố các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[2] Xét tính chất vụ án: Vụ án có tính chất nghiêm trọng, hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lí của Nhà nước về việc cất giữ, vận chuyển, trao đổi chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, là một trong những nguyên nhân dẫn đến những hành vi phạm tội khác nên cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với các bị cáo.

[3] Xét vai trò đồng phạm: Các bị cáo có vai trò ngang nhau trong việc thực hiện tội phạm, cùng góp tiền mua ma túy, cùng đi mua ma túy sử dụng chung, vì vậy chịu trách nhiệm ngang nhau.

[4] Xét tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, do đó các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 điều 51- Bộ luật hình sự. Các bị cáo đều có tiền sự, có nhân thân xấu. Vì vậy, HĐXX xem xét để có hình phạt tương xứng, phù hợp đảm bảo tính răn đe cũng như sự khoan hồng của pháp luật. Đồng thời cách li các bị cáo ra khỏi đời sống cộng đồng xã hội một thời gian mới đủ điều kiện đề cải tạo, giáo dục các bị cáo trở thành công dân tốt có ích cho xã hội, và để phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Vật chứng vụ án: Xét số ma túy còn lại sau giám định hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa là vật cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy; Chiếc xe máy BKS 36H8-3538 của bị cáo H1 là công cụ phương tiện phạm tội nên tịch thu nộp ngân sách Nhà Nước khi án có hiệu lực pháp luật theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 106 - BLTTHS

[6] Hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp.

[7] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 điều 136 BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

- Tuyên bố: Các bị cáo Lê Văn H1, Hoàng Văn H2 phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Xử phạt: Bị cáo Lê Văn H1 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23 tháng 9 năm 2020.

- Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn H2 21 (hai mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 17 tháng 9 năm 2020.

- Về vật chứng vụ án: Áp dụng khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106 - BLTTHS. Sau khi án có hiệu lực pháp luật, tịch thu nộp Ngân sách Nhà Nước chiếc xe máy BKS 36H8-3538; Tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau giám định. Các vật chứng trên hiện đang thu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự TP. Thanh Hóa theo “Biên bản giao nhận vật chứng” số 71/THA ngày 29/12/2020 giữa Công an thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa.

- Về án phí: Áp dụng khoản 2 điều 136 - BLTTHS; khoản 1 điều 21; điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc các bị cáo Lê Văn H1 và Hoàng Văn H2 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ án phí HSST.

- Về quyền kháng cáo: Các bị cáo Lê Văn H1và Hoàng Văn H2 có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7, 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 98/2021/HS-ST

Số hiệu:98/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;