Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK R’LẤP, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 95/2021/HS-ST NGÀY 17/12/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 17 tháng 12 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk R’Lấp, tỉnh Đắk Nông xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 94/2021/TLST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 94/2021/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 12 năm 2021 đối với bị cáo:

Phạm Ngọc T, sinh ngày 19-5-1976 tại tỉnh Bình Dương; Nơi ĐKKHTT: 557/3 đường C, Tổ A, khu phố B, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nơi cư trú: Không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Chí H (đã chết) và bà Dương Thị H; có 01 con sinh năm 2000. Bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 18-6-2021.

Tiền án: 01. Ngày 18-9-2015 bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 113/2015/HSPT. Chấp hành xong hình phạt ngày 07-5-2020.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1967. Địa chỉ: Thôn C, xã N, huyện Đ, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Tháng 5 năm 2020, sau khi chấp hành hình phạt tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, Phạm Ngọc T trở về địa phương sinh sống thì được ông Mai Văn B (sinh năm 1953; cư trú tại số nhà N, đường V, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương) thuê đến trông coi nhà nuôi chim yến và thu hoạch cà phê tại đất rẫy của gia đình ông Tuyến thuộc Thôn D, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông. Quá trình trông rẫy cho ông B thì T tái nghiện nên khoảng tháng 4 năm 2021 T đến khu vực bệnh viện Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh gặp một nam giới (không rõ nhân thân lại lịch), để mua 01 gói ma túy với giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua ma túy, T đem về nhà nuôi chim yến của ông B, đổ gói ma túy vào trong lọ nhựa rồi sử dụng 01 đoạn ống hút nhựa xúc một phần ma túy trong lọ cho vào trong 02 gói nilon có kích thước lần lượt là (3,5x3,7)cm; (6x9,5) cm và 01 đoạn ống hút bằng nhựa, kích thước (1,4x1)cm. Khi đã phân chia xong số ma túy mua được, T cất giấu 02 gói nilon chứa ma túy tại nhà kho thứ nhất trong ngôi nhà nuôi chim yến; 01 đoạn ống hút chứa ma túy T cất giấu trong túi bên trái của áo khoác da màu đen, để trong tủ đựng quần áo tại phòng ngủ của T. Phần chất ma túy còn lại trong lọ nhựa về sau T đã sử dụng gần hết.

Khoảng 20 giờ 30 phút ngày 17-6-2021, khi đang ngồi trong nhà nuôi chim yến, T sử dụng khẩu súng phóng điện mua trước đó trên mạng Internet, bắn gây ra tiếng nổ lớn. Lúc này có Nguyễn Văn L đến chơi cùng T. Do tiếng nổ lớn nên người dân ở gần trình báo Công an. Một lúc sau, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk R’lấp phối hợp với Công an xã Nhân Cơ tiến hành kiểm tra hành chính nhà nuôi chim yến của ông B, thu giữ khẩu súng và 02 viên đạn nhựa của T, tiến hành niêm phong gửi giám định. Đồng thời, qua kiểm tra nhanh việc sử dụng chất ma túy của Phạm Ngọc T và Nguyễn Văn L đều cho kết quả dương tính. Lúc này, T tự thú về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tự nguyện giao nộp 01 đoạn ống hút bằng nhựa, màu đỏ trắng, kích thước (1,4x1)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng được Thanh để trong túi áo khoác da màu đen, trong chiếc tủ đựng quần áo tại phòng ngủ; 01 lọ nhựa trong suốt, có chiều cao 8,2cm, đường kính 5,5cm bên trong bám dính các hạt tinh thể rắn màu trắng và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã niêm phong ký hiệu “M01; M02” gửi giám định.

Cùng ngày Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp chỗ ở của Phạm Ngọc T, phát hiện 01 gói nilon trong suốt được hàn kín các cạnh, kích thước (3,5x3,7)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể rắn màu trắng, được Thanh cất giấu dưới lớp quả cà phê khô, đựng trong thùng xe rùa đặt tại nhà kho phía trước ngôi nhà;

01 gói nilon (loại gói zipper, chỉ đỏ), kích thước (6x9,5)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng, được T cất giấu dưới tấm bạt để trong nhà kho phía trước ngôi nhà, đã niêm phong ký hiệu “MẪU KHÁM XÉT” gửi giám định.

Bản kết luận giám định số 25/KLSĐ-PC09 ngày 23-6-2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đăk Nông, kết luận:

- Khẩu súng gửi đến giám định là súng phóng điện, không phải là vũ khí quân dụng, súng được dùng để tự vệ.

Bản kết luận giám định số 93/KLMT-PC09 ngày 22-6-2021 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Đăk Nông, kết luận:

- Tinh thể màu trắng đựng trong lọ nhựa cao 8,2cm, đường kính 5,5cm, được niêm phong trong bì thư ký hiệu “M01” gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,2072 gam, là Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 đoạn ống nhựa màu đỏ trắng, kích thước (1x1,4)cm được niêm phong trong bì thư ký hiệu “M02” gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 0,1726 gam, là Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng đựng trong gói nilon trong suốt, kích thước (3,5x3,7)cm được niêm phong trong bì thư ký hiệu “MẪU KHÁM XÉT” gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 3,9699 gam, là Methamphetamine.

- Tinh thể màu trắng đựng trong 01 gói zipper chỉ đỏ kích thước (6x9,5)cm được niêm phong trong bì thư ký hiệu “MẪU KHÁM XÉT” gửi giám định là ma túy, có khối lượng mẫu là 4,9423 gam, là Methamphetamine.

Hoàn lại đối tượng sau giám định: Tinh thể màu trắng trong bì thư ký hiệu “M01” có khối lượng 0,1587 gam; tinh thể màu trắng trong bì thư ký hiệu “M02” có khối lượng 0,1163 gam; tinh thể màu trắng trong gói nilon trong bì thư ký hiệu “MẪU KHÁM XÉT” có khối lượng 3,5080 gam; tinh thể màu trắng trong gói zipper trong bì thư ký hiệu “MẪU KHÁM XÉT” có khối lượng 4,3407 gam.

Cáo trạng số 89/CT-VKS ngày 15-11-2021 của Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đắk R’Lấp quyết định truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đăk R’Lấp để xét xử Phạm Ngọc T về tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g và điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa: Bị cáo Phạm Ngọc T khai nhận như khai tại cơ quan điều tra, thừa nhận cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố là hoàn toàn đúng với hành vi mà bị cáo thực hiện. Bị cáo không bào chữa gì.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa sau khi phân tích vai trò, tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo kết luận giữ nguyên quan điểm truy tố như nội dung cáo trạng truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm g và điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s, r khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm 06 tháng tù.

Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Tịch thu tiêu hủy ma túy hoàn lại sau giám định được đựng trong các bì thư dán kín, mặt trước ghi dòng chữ “MẪU M01; M02 và MẪU KHÁM XÉT hoàn trả” là vật thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ.

Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy (gồm chai nhựa trong suốt, phần nắp chai có gắn một đoạn ống thủy tinh được uốn cong) do không còn giá trị sử dụng.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, bị cáo cảm thấy rất hối hận. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để bị cáo sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đăk R’Lấp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Tại phiên tòa, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra công khai, Hội đồng xét xử đủ căn cứ xác định: Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 17-6- 2021, tại nhà nuôi yến của ông Mai Văn B, thuộc Thôn D, xã N, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông, Phạm Ngọc T đã tự thú về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và bị cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’Lấp khám xét khẩn cấp chỗ ở, phát hiện, thu giữ thêm ma túy mà T tàng trữ ngoài số ma túy tự nguyện giao nộp. Tổng khối lượng ma túy T tàng trữ để sử dụng là 9,292 gam Methamphetamine. Toàn bộ ma túy do T mua của đối tượng là nam giới (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) tại khu vực bệnh viện quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh với giá 1.000.000 đồng. Bị cáo T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền quản lý các chất ma túy của Nhà nước nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đối với hành vi tàng trữ trái phép 01 khẩu súng là công cụ hỗ trợ và 02 viên đạn, không phải là vũ khí quân dụng, ngày 01-10-2021 Công an huyện Đắk R'lấp đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 31/QĐ-XPHC, hình thức xử phạt chính là phạt tiền với mức phạt là 3.000.000 đồng và hình phạt bổ sung là tịch thu 01 khẩu súng là công cụ hỗ trợ và 02 viên đạn.

Đối với đối tượng nam giới bán ma túy cho T chưa xác định được nhân thân, lai lịch, đề nghị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’lấp tiếp tục điều tra, làm rõ và xử lý theo quy định của pháp luật.

Đối với Nguyễn Văn L, 21-7-2021 Tòa án nhân dân huyện Đắk R’lấp đã ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính số 18/2021/QĐ-TA đưa Lập vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Việc ông Mai Văn B thuê Phạm Ngọc T trông coi nhà nuôi chim yến nhưng không biết Thanh tàng trữ trái phép chất ma túy trong nhà nên không đề cập xử lý.

[3]. Tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo tàng trữ trái phép 9,292 gam Methamphetamine nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự. Ngày 18-9-2015 bị cáo bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương xử phạt 08 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo Bản án hình sự phúc thẩm số 113/2015/HSPT, chấp hành xong hình phạt ngày 07-5-2020 nhưng chưa được xóa án tích, bị cáo lại tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý nên phải chịu tình tiết định khung hình phạt “tái phạm nguy hiểm” quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

[4]. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trước khi tội phạm bị phát hiện, bị cáo đã tự thú về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi của mình nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, r khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5]. quyết định hình phạt: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã được giáo dục cải tạo nhưng không lấy đó làm bài học kinh nghiệm mà vẫn tiếp tục phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý. Vì vậy, Hội đồng xét xử cần áp dụng mức hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo để tăng cường biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm về ma túy nói chung; đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo cũng như phòng ngừa chung trong xã hội.

[6]. việc xử lý vật chứng: Đối với 8,1237gam Methamphetamin hoàn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy là vật chứng cấm lưu hành, không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7]. Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Đăk R’Lấp tại phiên tòa là có căn cứ, đúng pháp luật, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8]. án phí: Bị cáo Phạm Ngọc T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm g và o khoản 2 Điều 249; điểm s, r khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt bị cáo Phạm Ngọc T 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18-6-2021.

2. Về việc xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tịch thu tiêu hủy 8,1237gam Methamphetamin hoàn lại sau giám định và 01 bộ dụng cụ sử dụng chất ma túy.

(Có đặc điểm như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 18-11-2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk R’Lấp và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đăk R’Lấp).

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Phạm Ngọc T phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

23
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 95/2021/HS-ST

Số hiệu:95/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk R'Lấp - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;