Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 94/2021/HS-ST NGÀY 14/09/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 14 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 88/2021/TLST-HS ngày 27 tháng 8 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 93/2021/QĐXXST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn D (tên gọi khác Nguyễn Văn T), sinh ngày 20 tháng 7 năm 1977, tại huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố N, thị trấn H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Nơi ở hiện nay: Thôn T, xã T1, huyện Hưng Hà, Thái Bình nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Vũ Thị Đ1, sinh năm 1950; Gia đình bị cáo có 02 anh em, bị cáo là con thứ nhất; bị cáo chưa có vợ, con; Nhân thân: Năm 2014 bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình xử phạt hành chính, hình thức phạt tiền về hành vi Trộm cắp tài sản (chấp hành xong tháng 6 năm 2014); Năm 2016 bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng (chấp hành xong ngày 13-11-2017); tiền sự: Năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc 18 tháng (chấp hành xong ngày 21-12-2020); tiền án: Không; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 07-6-2021 đến ngày 10-6-2021 chuyển tạm giam. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Thái Bình; bị cáo được trích xuất, có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Vũ Thị Đ, sinh năm 1950, số nhà 604, chung cư V, quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội (vắng mặt).

- Những người làm chứng:

1.Anh Trần Xuân H, sinh năm 1986; Địa chỉ: Thôn D, xã T, huyện Hưng hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

2. Anh Từ Minh K, sinh năm 1971; Đều cư trú: Thôn Q, xã H, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 18 giờ ngày 07-6-2021, tại đoạn đường ĐT 453 thuộc địa phận thôn T, xã T2, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện bắt quả tang Nguyễn Văn D có hành vi cất giấu tại lòng bàn tay phải 01 gói giấy ăn màu trắng bên trong có gói lớp tráng kim màu trắng, bên trong lớp giấy tráng kim có chứa 0,1537 gam ma tuý, loại Hêrôin, D nhờ một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết họ, tên tuổi địa chỉ) mua hộ với giá 100.000 đồng, mục đích để sử dụng. Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói ma tuý trên trước sự chứng kiến của anh Trần Xuân H và anh Từ Minh K. Ngoài ra, Công an huyện Hưng Hà quản lý, thu giữ của D 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu hồng; 01 xe mô tô nhãn hiệu PELICAN, màu sơn nâu, đeo biển kiểm soát 14F4-X và số tiền 192.000 đồng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Nguyễn Văn D Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Huyện Hưng Hà thu giữ 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain chưa qua sử dụng; 01 mảnh giấy tráng kim màu trắng.

Bản kết luận định giám định số 217/KLGĐMT - PC09 ngày 09-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình kết luận: “Chất bột màu trắng dạng cục gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Hêrôin), có khối lượng 0,1537 gam”.

Bản cáo trạng số 98/CT-VKSHH ngày 26-8-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung vụ án và nội dung bản cáo trạng đã truy tố.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình giữ quyền công tố, sau khi phân tích nội dung vụ án, hành vi phạm tội và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, đại diện Viện kiểm sát khẳng định quan điểm truy tố như nội dung bản cáo trạng là đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D từ 01 năm 06 tháng tù đến 02 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-6-2021; không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo; áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu của bị cáo Nguyễn Văn D là vật chứng của vụ án, sau khi giám định được niêm phong trong phong bì số 217/KLGĐMT - PC09 ngày 09-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 mảnh giấy tráng kim màu trắng; 01 mảnh giấy ăn màu trắng; 01 bơm kim tiêm và 01 ống Novocain đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm và 01 ống Novocain chưa qua sử dụng; Trả lại bị cáo số tiền 192.000 đồng; trả lại bà Đ 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu hồng đã qua sử dụng. Bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận. Bị cáo nói lời sau cùng: đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hưng Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, những người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa nhưng vắng mặt. Xét thấy tại giai đoạn điều tra họ đã có lời khai đầy đủ nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử, vì vậy Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 292 và khoản 1 Điều 293 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội: Lời khai của bị cáo Nguyễn Văn D tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, được chứng minh bằng các tài liệu, chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Biên bản niêm phong đồ vật, tài liệu bị tạm giữ do Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ngày 07-6-2021; Biên bản khám xét tại chỗ ở của Nguyễn Văn D; Bản kết luận định giám định số 217/KLGĐMT - PC09 ngày 09-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; Biên bản ghi lời khai của người làm chứng anh Trần Xuân H, anh Từ Minh K cùng toàn bộ các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Hồi 18 giờ ngày 07-6-2021, tại đường ĐT 453 thuộc địa phận thôn T, xã T1, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình; bị cáo Nguyễn Văn D đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1537 gam ma tuý, loại Hêrôin mục đích để sử dụng, bị Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình phát hiện, bắt quả tang. Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Văn D đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Điều luật quy định như sau:

Điều 249 Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

...;

c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.

Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hưng Hà truy tố bị cáo Nguyễn Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[4] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng đối với hành vi phạm tội của bị cáo thấy rằng: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo Nguyễn Văn D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, hủy hoại sức khỏe của người sử dụng, ảnh hưởng đến giống nòi và còn là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác.

[5] Về các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo: Bị cáo có nhân thân xấu, có 01 tiền sự. Trong giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội nên bị cáo được áp dụng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, Hội đồng xét xử thấy: Bản thân bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ về tác hại của ma túy, về việc Nhà nước nghiêm cấm mọi hành vi sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán, sử dụng trái phép chất ma túy nhưng do mắc nghiện ma túy bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội thể hiện sự coi thường pháp luật. Do đó cần phải tiếp tục cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội trong một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành công dân tốt, có ích cho gia đình và xã hội, đồng thời góp phần phòng ngừa chung.

[6] Bị cáo tàng trữ ma tuý để sử dụng, không có mục đích vụ lợi, bản thân bị cáo là đối tượng nghiện ma tuý, không có thu nhập ổn định, do đó không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cá o.

[7] Về nguồn gốc 0,1537gam ma túy loại, Hêrôin bị cáo Nguyễn Văn D khai nhận bị cáo nhờ người (không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể mua hộ với giá 100.000 đồng. Ngoài lời khai của bị cáo không có tài liệu nào khác xác định con người cụ thể mua hộ ma tuý cho D nên không có căn cứ xử lý trong vụ án này là phù hợp với quy định của pháp luật.

[8] Đối với 01 xe mô tô nhãn hiệu PELICAN, màu sơn nâu, đeo biển kiểm soát 14F4-X, trong quá trình điều tra, cơ quan điều tra chưa xác định được chủ sở hữu và chiếc biển số xe nên Cơ quan điều tra đã tách ra để tiếp tục điều tra xác minh làm rõ và xử lý theo quy định là phù hợp với quy định của pháp luật.

Đối với số tiền 192.000 đồng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của bị cáo nên cần tuyên trả lại cho bị cáo.

Đối với 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu hồng đã qua sử dụng, quá trình điều tra xác định đây là chiếc điện thoại bà Đ là mẹ đẻ bị cáo cho bị cáo D mượn, bà Đ đề nghị được xin lại chiếc điện thoại nên cần trả lại cho bà Đ chiếc điện thoại này là phù hợp với quy định của pháp luật.

[9] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain chưa qua sử dụng; 01 mảnh giấy tráng kim màu trắng, 01 mảnh giấy ăn màu trắng và toàn bộ số ma túy, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình thu giữ, quản lý của bị cáo Nguyễn Văn D, sau khi giám định, số còn lại được niêm phong trong phong bì số 217/KLGĐMT - PC09 ngày 09-6-2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình cần tịch thu tiêu hủy.

[9] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn D (tên gọi khác Nguyễn Văn T) phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 50 và Điều 38 của Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn D 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ 07-6-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ gồm: 0,1046gam (Không phẩy một nghìn không trăm bốn mươi sáu gam) mẫu gửi giám định và toàn bộ bao gói thu của Nguyễn Văn D trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 217/KLGĐMT- PC09 ngày 19-6- 2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain đã qua sử dụng; 01 bơm kim tiêm và 01 ống novocain chưa qua sử dụng; 01 mảnh giấy tráng kim màu trắng và 01 mảnh giấy ăn màu trắng.

Trả lại bị cáo Nguyễn Văn D số tiền 192.000 đồng (Một trăm chín mươi hai nghìn đồng). Trả lại bà Vũ Thị Đ 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu OPPO màu hồng đã qua sử dụng.

Toàn bộ vật chứng của vụ án hiện đang do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 30-8-2021giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Hưng Hà và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án , buộc bị cáo Nguyễn Văn D phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo Nguyễn Văn D có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Vũ Thị Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận tống đạt bản án hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

48
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2021/HS-ST

Số hiệu:94/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;