TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN N, THÀNH PHỐ HÀ NỘI
BẢN ÁN 94/2021/HSST NGÀY 19/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19/5/2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận N, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 86/2021/TLST-HS ngày 22/4/2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 97/QĐXXST-HS ngày 04/5/2021 đối với bị cáo:
Lù Văn C - SN: 1992; NKTT: Bản Tọ Nọ, xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên; Trình độ văn hoá: 6/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Con ông: Lù Văn Giót - SN: 1960; Con bà: Bạc Thị Thiên - SN: 1962; Gia đình có 04 anh em, bị cáo là con út; Vợ: Lò Thị Lơn - SN: 1996; Bị cáo có 01 con Lù Văn Tú, SN: 2012; Tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 15/12/2020, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội (có mặt).
Người bào chữa cho bị cáo: Ông Trương Công Đ- Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước. Có mặt
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 00’ ngày 15/12/2020, tổ Công tác Công an phường Phương Canh, phối hợp với Công an phường M quận N, Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại Bến xe Mỹ Đình thuộc phường M, N, Hà Nội, phát hiện Lù Văn C có biểu hiện nghi vấn. Yêu cầu kiểm tra, C tự lấy ở túi quần trước bên phải C đang mặc ra 01 gói nilong màu đen bên trong có cục bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. C khai đó là ma túy mua về để sử dụng. Tổ Công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong tang vật, dẫn giải C cùng vật chứng về trụ sở để điều tra theo thẩm quyền.
Vật chứng thu giữ:
- 01 gói nilong màu đen bên trong chứa cục màu trắng nghi là ma túy;
Kết luận giám định số 10853/KLGĐ -PC09 ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an TP Hà Nội kết luận:
- Cục bột màu trắng bên trong 01 gói nilong là ma túy loại Heroin, khối lượng: 0,457 gam.
Quá trình điều tra xác định:
Khoảng 19 giờ ngày 14/12/2020 Lù Văn C đi bộ từ nhà đến xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên để bắt xe xuống Hà Nội tìm việc làm. Trong khia đứng đợi xe C vay của một nam thanh niên 1.000.000 đồng để lấy tiền đi lại. Sau đó C gặp và mua ma túy là Heroin của một người phụ nữ (chưa xác định được nhân thân lai lịch) đứng gần chỗ C bắt xe. Mua xong C lấy một ít ra để sử dụng bằng hình thức chích, và cất số ma túy còn lại C bọc vào túi nylong màu đên và cất vào túi quần trước bên phải rồi lên xe khách xuống Hà Nội. Đến khoảng 6 giờ ngày 15/12/2020 xe cập bến Bến xe Mỹ Đình, khi vừa xuống xe C bị kiểm tra, C tự nguyện giao nộp gói nylong chứa ma túy.
Tại cơ quan điều tra, Lù Văn C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên.
Đối với người phụ nữ bán ma tuý cho C xã Ẳng Tở, huyện Mường Ảng, tỉnh Điện Biên và nam thanh niên cho C vay 1.000.000 đồng (như C khai), quá trình điều tra không xác định được nhân thân địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để làm rõ và xử lý.
Tại bản cáo trạng số 83/CT-VKS ngày 16/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân quận N, thành phố Hà Nội đã truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng đã truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.
Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự; đề nghị xử phạt bị cáo từ 18 tháng đến 24 tháng tù.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 46, Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 89, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
01 gói nilong màu đen bên trong chứa tinh thể màu trắng là Heroin có khối lượng 0,457 gam.
Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an quận N và Chi cục thi hành án dân sự quận N số 148 ngày 19/4/2021.
Người bào chữa cho bị cáo Lù Văn C trình bày:
Về tội danh và điều luật đối với bị cáo C tôi không có ý kiến gì.
Từ giai đoạn điều tra đến phiên tòa hôm nay bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn ăn năn hối cải, nhân thân tốt chưa có tiền án tiền sự, lần đầu bị truy tố và xét xử, khối lượng ma túy ít. Gia đình bị cáo thuộc vùng khó khăn.
Từ những phân tích trên tôi đề nghị HĐXX cho bị cáo hưởng khoan hồng của pháp luật, áp dụng Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xét xử bị cáo mức án 15 tháng tù giam cũng đủ răn đe và giáo dục bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận N, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân quận N, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận: Hồi 06 giờ, ngày 15/12/2020 tại bến xe khách Mỹ Đình, phường M, quận N, TP Hà Nội, bị cáo đang có hành vi tàng trữ trái phép khối lượng 0,457 gam Heroin mục đích để sử dụng thì bị tổ Công tác Công an phường Phương Canh, phối hợp với Công an phường M quận N, Hà Nội đang làm nhiệm vụ tại Bến xe Mỹ Đình thuộc phường M, quận N, Hà Nội, phát hiện kiểm tra bắt quả tang.
[3] Hành vi của bị cáo đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân quận N truy tố bị cáo là có căn cứ và đúng quy định pháp luật.
[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bị cáo biết rõ ma túy là chất gây nghiện làm tổn hại sức khỏe con người, di hại cho thế hệ tương lai, là một trong những nguyên nhân gây bệnh AIDS và là mầm mống của các loại tội phạm khác. Bị cáo nhận thức rõ việc tàng trữ chất ma túy là vi phạm pháp luật, Nhà nước ta đã nghiêm cấm mọi hành vi mua bán, tàng trữ… trái phép chất ma túy, nhưng vì là đối tượng nghiện nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện tội phạm với tính chất nguy hiểm cao. Vì vậy, cần xét xử nghiêm minh, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian, nhằm đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và làm bài học ngăn ngừa chung.
Tuy nhiên khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử xem xét: Tại phiên tòa, bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, bị cáo chưa có tiền án tiền sự, bị cáo là dân tộc thiểu số hiểu biết pháp luật hạn chế. Nên áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp ổn định, không có điều kiện thi hành nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 89, 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
01 gói nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng là Heroin có khối lượng 0,457 gam.
Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Công an quận N và Chi cục thi hành án dân sự quận N số 148 ngày 19/4/2021.
[7] Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Tuyên bố: Bị cáo Lù Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Xử phạt bị cáo Lù Văn C 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2020.
Về dân sự: Không.
Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 89, 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy:
- 01 gói nilong màu trắng bên trong chứa tinh thể màu trắng là Heroin có khối lượng 0,457 gam.
Theo Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan công an quận N và Chi cục thi hành án dân sự quận N số 148 ngày 19/4/2021.
- Về án phí và quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333, điều 337 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án
Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 94/2021/HSST
Số hiệu: | 94/2021/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/05/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về