Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2022/HSST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ C, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 93/2022/HSST NGÀY 13/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã C, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số88/2022/TLST-HS ngày 23 tháng 5 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2022/QĐXXST-HS ngày 30/5/2022 đối với bị cáo:

Đoàn L, sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; hộ khẩu thường trú: Tổ 6, khu phố 3, phường M, thị xã C, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Đoàn Tuấn Sơn (đã chết) và bà Nguyễn Thị Minh P, sinh năm 1965; bị cáo có vợ là Trần Thị Lê M, sinh năm 1984 (đã ly hôn) và 01 con sinh năm 2006; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 28/9/2016, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc theo Quyết định số 164/QĐ-TA với thời gian 18 tháng; đến ngày 29/01/2018 bị cáo chấp hành xong quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính; bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15/01/2022 cho đến nay. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Ông N, là Luật sư thuộc Công ty Luật trách nhiệm hữu hạn MTV N, thuộc đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 13 giờ 30 phút, ngày 15/01/2022, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về Kinh tế - Ma túy phối hợp với Công an phường T, thị xã C tiến hành kiểm tra hành chính phòng trọ số 02, nhà trọ Phước Thịnh thuộc đường D18, khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương do Đoàn L thuê ở. Quan kiểm tra, khám xét, lực lượng Công an phát hiện 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá dưới nệm ngủ màu xanh đặt trên gác phòng trọ và 03 túi nylon miệng kéo dính chứa chất tinh thể màu trắng. L khai chất tinh thể màu trắng là ma túy đá nên lực lượng Công an tiến hành thu giữ tang vật và bắt khẩn cấp đối với L.

Quá trình điều tra, Đoàn L khai nhận: L bắt đầu sử dụng trái phép chất ma túy từ năm 2012. Khoảng 09 giờ 30 phút, ngày 15/01/2022, L đón xe khách đến khu vực cầu vượt An Sương thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh gặp một đối tượng làm nghề chạy xe ôm (không rõ nhân thân, lai lịch) mua được 03 túi nylon miệng kéo dính, bên trong chứa ma túy đá với giá 3.000.000 đồng. Sau đó, L đem số ma túy vừa mua được về phòng trọ của mình cất giấu ở dưới nệm ngủ màu xanh đặt trên gác. Đến khoảng 12 giờ cùng ngày, L lấy một ít ma túy trong số ma túy vừa mua được bỏ vào bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế để sử dụng. Số ma túy còn lại trong 03 túi nylon miệng kéo dính L cất vào vị trí cũ. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Nguyễn M, sinh năm 1997; hộ khẩu thường trú: Ấp Cầu Đôi, xã Lai Hưng, huyện Bàu Bàng, tỉnh Bình Dương là bạn của L đến phòng của L chơi. Khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày, lực lượng Công an đến kiểm tra hành chính phát hiện ma túy, bắt giữ L, thu giữ tang vật.

Theo Kết luận giám định số 88 ngày 20/01/2022 của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng (bị thu giữ) gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 16,9426 gam.

Tại bản Cáo trạng số 91/CT-VKSBC ngày 20/5/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo Đoàn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

- Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Đoàn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), đề nghị xử phạt bị cáo Đoàn L từ 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng đến 7 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tuyên tịch thu tiêu hủy 01 bì thư được niêm phong ghi số 88/PC09, trọng lượng: M = 16,5916 gam loại Menthamphetamine (theo Kết luận giám định số 88/MT – PC09 ngày 20/01/2022, Biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 15/01/2022);

- Tịch thu tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

- Người bào chữa cho bị cáo không tranh luận mà trình bày ý kiến: Thống nhất với bản Cáo trạng số: 91/CT-VKSBC ngày 20/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C về việc truy tố bị cáo Đoàn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Đồng thời thống nhất với đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về việc đề nghị áp dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như đại diện Viện Kiểm sát đề nghị.

Ngoài ra, luật sư bổ sung thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự để Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, cụ thể: Bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, có con còn nhỏ sinh năm 2006; bị cáo có mẹ là mẹ đơn thân một mình nuôi bị cáo từ nhỏ; bị cáo mất cha từ nhỏ nên thiếu đi sự quan tâm, chăm sóc của người cha; cuộc sống hôn nhân của bị cáo không được hạnh phúc dẫn đến bị cáo và vợ đã ly hôn. Từ những lý do trên nên bị cáo đã bị tổn thương về tinh thần nên đã dẫn đến con đường phạm tội. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc xử phạt bị cáo mức án từ 05 đến 06 năm tù.

- Bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi của mình đúng như nội dung bản cáo trạng đã mô tả và thừa nhận hành vi của mình như lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát. Trong phần tranh luận, bị cáo không tranh luận mà chỉ xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ch ứng cứ, ý kiến của vị đại diện Viện Kiểm sát, bị cáo, người bào chữa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên Công an thị xã C, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi tố tụng của người bào chữa: Trong quá trình tham gia tố tụng cũng như tại phiên tòa, những người bào chữa cho bị cáo đã thực hiện đúng về quyền, nghĩa vụ của người bào chữa theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo đồng ý và không có ý kiến gì về việc tham gia bào chữa của những người bào chữa. Do đó, hành vi tố tụng của người bào chữa là đúng, phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung bản Cáo trạng đã mô tả. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ 30 phút, ngày 15/01/2022, tại phòng trọ số 02, nhà trọ P, thuộc đường D18, khu phố 6, phường T, thị xã C, tỉnh Bình Dương, bị cáo Đoàn L đã có hành vi tàng trữ 16,9426 gam ma túy, loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị lực lượng Công an kiểm tra hành chính, phát hiện và bắt quả giữ cùng tang vật. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Do đó, bản Cáo trạng số 91/CT-VKSBC ngày 20/5/2022 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã C truy tố bị cáo Đoàn L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Bị cáo hoàn toàn có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[3.1] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy mà còn gây mất trật tự trị an tại địa phương. Ngoài ra, ma túy là một loại chất độc dược gây ra tác hại rất lớn về nhiều mặt cho xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe của người sử dụng và cũng là mầm mống lan truyền các căn bệnh xã hội như HIV, AIDS, .... vv. Ma túy còn là nguyên nhân dẫn đến những loại tội phạm khác.

Bị cáo là thanh niên còn trẻ, có sức khỏe, về nhận thức bị cáo biết được được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là bị pháp luật nghiêm cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện bản chất xem thường pháp luật, bất chấp hậu quả xảy ra. Do đó, đối với bị cáo cần phải có mức hình phạt nghiêm minh, tương xứng với tính chất và mức độ phạm tội để răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành công dân sống có ích cho gia đình và xã hội.

[3.2] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được cân nhắc, xem xét khi quyết định hình phạt gồm: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn, hối cải nên được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, gia đình bị cáo là gia đình có công với cách mạng (ông Nguyễn Văn Xảo là ông ngoại của bị cáo được Nhà nước tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất). Do đó, bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[3.3] Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[3.3] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu. Ngày 28/9/2016, bị Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời gian chấp hành tại cơ sở cai nghiện là 18 tháng, bị cáo đã chấp hành xong ngày 29/01/2018. Sau khi chấp hành xong, bị cáo vẫn không tu dưỡng, rèn luyện, sửa đổi bản thân mà lại tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội và sử dụng ma túy, gây ra gánh nặng cho gia đình và xã hội. Do đó, trong lần phạm tội này cần tiếp tục cách ly bị cáo ra khỏi xã hội trong một khoảng thời gian đủ để giáo dục răn đe và phòng ngừa chung trong xã hội.

[4] Xét thấy, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và mức hình phạt mà đại diện Viện Kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5] Xét đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo về việc đề nghị xem xét cho bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 05 đến 06 năm tù như đã trình bày ở mục trên là không phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên không chấp nhận.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy mà bị cáo tàng trữ có trọng lượng sau giám định là 16,5916 gam, loại Methamphetamine và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá. Đây là vật chứng cấm tàng trữ, lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[7] Đối với người hành nghề xe ôm đã bán ma túy cho L không rõ nhân thân lai lịch, hiện Cơ quan điều tra đang tiếp tục điều tra làm rõ, khi xác định được sẽ xử lý sau.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Đoàn L phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về trách nhiệm hình sự và hình phạt:

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt bị cáo Đoàn L 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; điểm c khoản 1 Điều 47 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy: 01 Bì thư được niêm phong ghi số 88/PC09, trọng lượng: M = 16,5916 gam loại Methamphetamine (theo Kết luận giám định số 88/MT – PC09 ngày 20/01/2022, Biên bản đóng gói niêm phong và giao, nhận đối tượng giám định ngày 15/01/2022);

- Tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá.

(Theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 18/5/2022 giữa Công an thị xã C với Chi cục Thi hành án dân sự thị xã C, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí hình sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 135, 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 23 và Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Buộc bị cáo Đoàn L phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày Tòa tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

125
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2022/HSST

Số hiệu:93/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Bến Cát - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;