Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 93/2022/HS-ST NGÀY 23/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 06 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, thành phố Hà Nội xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 70/2022/TLST-HS ngày 03 tháng 06 năm 2022 theo Quyết định đưa ra xét xử số 70/2022/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 06 năm 2022, đối với bị cáo:

Phan Đức N, sinh năm 1979; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Khu 3, xã S, huyện N, tỉnh Phú Thọ; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; giới tính: Nam; trình độ văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Lao động tự do; họ tên cha: Phan Kế T, sinh năm 1954; họ tên mẹ: Đặng Thị C, sinh năm 1954; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ hai; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Bản án số 18/2006/HSST ngày 10/03/2006 của Tòa án nhân dân thị xã Sơn Tây, tỉnh M xử phạt Phan Đức N 08 tháng 01 ngày tù về tội “Chứa mại dâm”, đã chấp hành xong hình phạt tù, đã xóa án tích; Bản án số 27/2017/HSST ngày 16/06/2017 của Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Phú Thọ xử phạt Phan Đức N 30 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 02/02/2019, đã xóa án tích.

Bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 20/01/2022 đến ngày 26/01/2022 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 2, Công an thành phố Hà Nội, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 13 giờ 10 ngày 20/01/2022, tổ công tác Công an xã P, huyện K đang làm nhiệm vụ tại khu vực X, xã P, huyện K, Hà Nội thì kiểm tra, phát hiện Phan Đức N, sinh năm 1979; trú tại: Khu 3, S, N, Phú Thọ đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan Công an đã thu giữ, niêm phong tang vật và lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với N.

Vật chứng thu giữ của Phan Đức N gồm:

- 01 khẩu trang màu xám bên trong có 01 gói giấy màu trắng bên trong gói giấy màu trắng có 02 gói giấy màu trắng gồm: 01 gói giấy màu trắng bên trong chứa chất bột màu trắng; 01 gói giấy màu trắng mở ra bên trong có 02 gói giấy màu trắng bên trong đều chứa chất bột màu trắng;

- 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS 29P6-xxx, số máy: 14865, số khung: 014865, đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng bên trong lắp thẻ sim 0981145380, đã qua sử dụng.

Tại Bản kết luận giám định số 903/KLGD – PC09 ngày 27/01/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hà Nội kết luận kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 03 gói giấy màu trắng đều là ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,407 gam.

Tại cơ quan công an, Phan Đức N khai nhận: Bản thân N là người nghiện ma túy. Khoảng 12 giờ 30 ngày 20/01/2022, N điều khiển xe máy nhãn hiệu YAMAHA Jupiter BKS 29P6-xxx trên đường đi làm về đến Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh mua của một nam thanh niên không rõ nhân thân 03 gói ma túy loại Heroine với giá 300.000 đồng được bọc trong gói giấy màu trắng. Sau khi mua được ma túy N cầm ở tay trái và điều khiển xe đi về đến khu vực X, P, K, Hà Nội, N dừng xe ở ven đường và lấy 1 gói ma túy vừa mua được ra sử dụng một phần bằng hình thức hít sau đó gói lại. N bọc 3 gói ma túy vào chiếc khẩu trang màu xám và cất vào bên trong túi áo khoác phía ngoài bên trái đang mặc thì bị cơ quan công an phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Đối với người bán ma túy cho bị cáo Phan Đức N do không xác định được nhân thân, nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xử lý.

Đối với chiếc điện thoại nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng bên trong lắp thẻ sim 0981145380 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo N không liên quan đến hành vi phạm tội.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS 29P6-xxx, số máy: 14865, số khung: 014865, xe cũ đã qua sử dụng thu giữ của Phan Đức N, N khai mua chiếc xe nói trên tại 01 cửa hàng bán xe máy tại Hà Nội với giá 6.000.000 đồng vào năm 2021, có giấy tờ mua bán xe. Qua xác minh chủ chiếc xe nói trên là anh Kim Anh Hải, sinh năm 1982; ĐKHKTT: Lưu Phái, Ngũ Hiệp, Thanh Trì, Hà Nội. Anh Hải mua mới chiếc xe nói trên tại 01 cửa hàng bán xe máy tại Hà Nội từ năm 2008 và đăng ký xe mang tên Kim Anh Hải. Năm 2021, anh đã bán chiếc xe này cho 01 cửa hàng xe máy tại Hà Nội và không nhớ bán được bao nhiêu tiền. Hiện nay, anh không còn sở hữu chiếc xe và không có yêu cầu đề nghị đối với chiếc xe trên. Tại Giấy mua bán xe của Phan Đức N thể hiện N mua xe của anh Nguyễn Phúc Lộc, sinh năm 1986, địa chỉ: Xã An Thượng, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội. Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành làm việc với anh Lộc có kết quả như sau: Anh Lộc là chủ cửa hàng mua bán xe máy tại Hoài Đức-Hà Nội. Chiếc xe máy kiểu dánh Yamaha Jupiter, màu xanh, BKS 29P6-xxx, số khung: 014865, số máy: 14865 đầu năm 2021 có một người bán cho cửa hàng của anh Lộc (không nhớ mua bao nhiêu tiền). Đến tháng 11/2021, anh Lộc đã bán chiếc xe này cho Phan Đức N, sinh năm 1979, ĐKHKTT: Xã S, huyện N, tỉnh Phú Thọ với giá 6.000.000 (sáu triệu đồng). Theo kết quả tra cứu xe máy vật chứng của Công an huyện K thì chiếc xe máy nói trên không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng.

Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện K, Phan Đức N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, vật chứng thu giữ và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Tại bản Cáo trạng số 83/CT-VKSGL ngày 31 tháng 05 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo Phan Đức N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tham gia phiên tòa luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố theo Cáo trạng; sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt Phan Đức N từ 16 tháng đến 20 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2022; không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu và tiêu huỷ số ma túy thu giữ của bị cáo; hoàn trả bị cáo: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS 29P6-xxx SM: 14865, SK: 014865 đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng bên trong lắp thẻ sim 0981145380 đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo do không liên quan đến hành vi phạm tội.

Sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội, bị cáo không có tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K và Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân huyện K và Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh:

Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 13 giờ 10 phút ngày 20/01/2022 tại khu vực X, xã P, huyện K, thành phố Hà Nội, bị cáo N đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy loại Heroine, khối lượng 0,407 gam, mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị cơ quan Công an kiểm tra bắt giữ cùng vật chứng. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố bị cáo theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về hình phạt áp dụng đối với bị cáo:

[3.1] Về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực t xâm phạm chế độ độc quyền quản lý Nhà nước đối với các chất ma tuý, gây mất trật tự trị an xã hội. Heroine là chất ma tuý rất độc hại, tàn phá và huỷ hoại sức khoẻ con người, là một trong những nguyên nhân C phát sinh ra các tệ nạn xã hội và các loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác trong đời sống xã hội. Trong những năm qua, tội phạm về ma tuý trên địa bàn thành phố Hà Nội diễn biến rất phức tạp, Nhà nước, các cấp C quyền và Đoàn thể rất quan tâm và nỗ lực tuyên truyền, giáo dục về tác hại của ma tuý, kêu gọi toàn dân tích cực tham gia phòng chống tệ nạn về ma tuý và tội phạm may tuý. Bị cáo nhận thức được tác hại và hậu quả do ma tuý gây ra nhưng không tích cực phòng chống mà còn tàng trữ để sử dụng nên cần thiết phải xử lý nghiêm minh để giáo dục, cải tạo đối với bị cáo và phòng ngừa chung; góp phần đấu tranh phòng chống tệ nạn và các tội phạm về ma tuý trong đời sống xã hội.

[3.2] Về nhân thân bị cáo: Bị cáo là người nghiện ma túy. Năm 2006, Phan Đức N bị kết án về tội “Chứa mại dâm” và năm 2017 bị kết án về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, đều đã được xóa án tích. Như vậy, thể hiện bị cáo có nhân thân xấu, đã được các cơ quan pháp luật giáo dục, cải tạo, khi trở về nơi cư trú không cố gắng rèn luyện bản thân, hòa nhập cộng đồng, mà lại t tục phạm tội.

[3.3] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải. Như vậy, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3.4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Tổng hợp nhận định ở trên, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian bằng việc áp dụng hình phạt tù có thời hạn để đảm bảo việc răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa chung như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân huyện K tại phiên toà là phù hợp.

[3.5] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên toà thể hiện: Bị cáo là người nghiện ma túy, là lao động tự do, thu nhập không ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[4] Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, Đối với số ma túy thu giữ của bị cáo là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS 29P6-xxx, số máy: 14865, số khung: 014865, đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng đồng bên trong lắp thẻ sim 0981145380, đã qua sử dụng là tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên hoàn trả cho bị cáo.

[5] Về án phí: Bị cáo phạm tội phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[7] Về các nội dung khác:

Đối với đối tượng bán ma túy cho bị cáo, do không xác định được nhân thân, Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra xác minh, xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phan Đức N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 của Bộ luật Hình sự, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Phan Đức N 18 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 20/01/2022.

2.2. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

3.1. Tịch thu, tiêu huỷ: Ma túy loại Heroine, tổng khối lượng 0,386 gam (sau khi đã trừ trích mẫu để giám định 0,021 gam) được bọc trong 01 (một) chiếc khẩu trang màu xám, đựng trong 01 phong bì niêm phong có chữ ký xác nhận niêm phong của Phan Đức N, cán bộ niêm phong và Giám định viên, do Phòng PC09-Công an thành phố Hà Nội hoàn lại sau giám định.

3.2. Hoàn trả Phan Đức N: 01 xe máy nhãn hiệu Yamaha Jupiter màu xanh BKS 29P6-xxx, số máy: 14865, số khung: 014865, xe cũ đã qua sử dụng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu vàng, bên trong lắp thẻ sim 0981145380, máy cũ đã qua sử dụng thu giữ của bị cáo.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan điều tra Công an huyện K và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K ngày 06/06/2022).

4. Về án phí: Áp dụng Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo.

Bị cáo Phan Đức N phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 93/2022/HS-ST

Số hiệu:93/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sóc Sơn - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;