Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÀ LẠT, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 92/2022/HS-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 93/2022/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2022/QĐXXST - HS ngày 16/5/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Mạnh Đ, sinh năm: 1989, tại: Hà Nội; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số N, Phố L, hàng B, Quận H, Thành phố Hà Nội; nơi cư trú: Số N đường K, Phường S, Thành phố Đ Lạt, Tỉnh Lâm Đồng; trình độ học vấn: 12/12; nghề nghiệp: Vận động viên của Trung tâm Thể dục thể thao thành tích cao Hà nội; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông: Nguyễn Mạnh H, sinh năm: (đã mất) và bà: Nguyễn Thị N, sinh năm: 1961; vợ: Phan Thị Xuân T1; có 03 con, lớn nhất sinh năm: 2011, nhỏ nhất sinh năm: 2017; chức vụ, đoàn thể, đảng phái: Không; tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt, tạm giam ngày 28/10/2021, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm gi Công an thành phố Đà Lạt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Lương Văn C, sinh năm: 1995. Địa chỉ: Số M đường H, Phường S, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

- Người làm chứng:

1. Chị Thái Thị H, sinh năm: 2000 Địa chỉ: Thôn Q, xã H2, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

2. Anh Nguyễn Văn B, sinh năm: 1996 Địa chỉ: thôn P, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

3. Anh Hoàng Ngọc H2, sinh năm: 1990 Địa chỉ: thôn D – xã B1 – huyện S - Vĩnh Phúc.

4. Chị Phạm Thị T3, sinh năm: 1994 Địa chỉ: thôn N1, xã L1, huyện Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

5. Ông Lê Đức T4, sinh năm: 1956 Địa chỉ: Số N, đường K, Phường S, Thành phố Đ, Tỉnh Lâm Đồng.

(Bị cáo có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Mạnh Đ từ Hà Nội vào Đà Lạt làm thuê từ tháng 6/2020. Tối ngày 25/10/2021, Đ tham dự tiệc sinh nhật của một người bạn tên Quyền (không rõ nhân thân, lai lịch) tại quán DJ365 đường H, Phường S - Đà Lạt thì được bạn của Quyền lấy Ketamine ra để cả nhóm sử dụng, lúc này Đ cũng có sử dụng Ketamine. Khi cả nhóm ra về, thấy trên bàn còn lại một mẩu viên thuốc lắc, ít ketamine và ống hút, Đ thu gom lại trong gói nylon để trong ví da rồi mang theo bên mình.

Khoảng 03 giờ ngày 28/10/2021, sau khi ăn nhậu, Đ cùng Nguyễn Văn B, Lương Văn C về nhà Đ tại số N đường K, Phường S – thành phố Đ để ngủ. Khi về đây, Đ và Chính vào phòng thứ hai bên trái hướng cầu thang đi lên lầu 2 để ngủ, còn B ngủ ở phòng khác. Sau khi vệ sinh cá nhân, Đ thấy C đã ngủ thì xuống bếp lấy đĩa sứ mang lên phòng, sau đó Đ lấy gói ma túy, ống hút từ ví ra đổ lên đĩa sứ. Đ bật đèn nháy có sẵn trong phòng, dùng thẻ nhựa của mình cà mịn ketamine rồi sử dụng và ngủ. Đến khoảng 8 giờ ngày 28/10/2021, khi Đ và Chính đang nằm ngủ trong phòng thì bị Công an Phường 6 kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu gi tang vật, gồm:

- 01 lượng chất tinh thể màu trắng trên đĩa sứ được thu gom vào trong 01 gói nilon màu trắng và niêm phong theo quy định ký hiệu M1;

- 01 gói nylon màu trắng trong một đầu có khóa bằng kẹp nhựa, bên trong có 01 viên nén màu xanh và một số mảnh của viên nén màu xanh ký hiệu M2;

- 01 đèn laser màu đen;

- 01 loa màu trắng;

- 01 đĩa sứ màu trắng;

- 01 thẻ nhựa màu cam có chứ “NGUYEN MANH DUC”;

- 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đ, bên ngoài có bọc bằng 03 vỏ lọc thuốc lá màu xanh có ch Vinataba (BL: 52-59) Thu giữ của Nguyễn Mạnh Đ:

- 01 Điện thoại Iphone 6 đã qua sử dụng;

- 01 Điện thoại Samsung Note 8 màu vàng, có sim 0866899168 đã qua sử dụng;

- 01 Căn cước công dân tên Nguyễn Mạnh Đ (BL:116) Thu giữ của Lương Văn Chính:

- 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen đã qua sử dụng;

- 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xanh đã qua sử dụng có sim số: 0764567995 (BL: 122) Tại Kết luận giám định số 1388/GĐ-PC09 ngày 05/11/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể (M1) đựng trong một gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng là 0,0363g, loại Ketamine; mẫu một viên nén và các mảnh viên nén (M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,6586g, loại MDMA Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT: 35; MDMA là chất ma túy nằm trong Danh mục I, STT: 27, Nghị định 73/2018/NĐ-CP, ngày 15/5/2018 của Chính phủ (BL: 30).

Tại bản cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Mạnh Đ khai nhận, khoảng 08 giờ ngày 28/10/2021, tại nhà Đ ở nhờ số số N đường K, Phường S – thành phố Đ, Công an Phường S kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu gi tang vật gồm mẫu viên thuốc lắc, một ít tinh thể màu trắng và 01 ống hút được quấn bằng tờ tiền mệnh giá 10.000đ; 01 đèn laser màu đen; 01 loa màu trắng; 01 đĩa sứ màu trắng và 01 thẻ nhựa màu cam, là ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy của Đ đã sử dụng để lại trong phòng ngủ như cáo trạng truy tố là hoàn toàn chính xác; bị cáo không thắc mắc khiếu nại gì đối với cáo trạng truy tố và xin được giảm nhẹ hình phạt.

Sau phần luận tội, đại diện Viện kiểm sát vẫn gi nguyên quan điểm truy tố bị cáo Nguyễn Mạnh Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và đề nghị áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Đ từ 12 (mười hai) đến 15 (mười lăm) tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy là tang vật của vụ án đã qua giám định; tịch thu tiêu hủy 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa màu cam và 03 vỏ lọc thuốc lá màu xanh. Tịch thu sung Công quỹ Nhà nước tờ tiền mệnh giá 10.000đ. Tịch thu bán sung công quỹ Nhà nước 01 đèn laser màu đen và 01 loa màu trắng. Trả cho bị cáo Đ 01 Căn cước công dân tên Nguyễn Mạnh Đ. Giao cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt 01 Điện thoại Iphone 6; 01 Điện thoại Samsung Note 8 màu vàng, 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen và 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xanh có sim số 0764567995 (tất cả đã qua sử dụng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Mạnh Đ: Vào tối ngày 25/10/2021, sau khi cùng bạn của Quyền (không rõ nhân thân, lai lich) sử dụng ma túy tại quán DJ 365 đường Hai Bà Trưng, Phường 6, Thành phố Đà Lạt, Đ thấy trên bàn còn lại một mẫu viên thuốc lắc, ít ketamine và ống hút nên thu gom lại trong gói nylon để trong ví da rồi mang theo bên mình. Khoảng 03 giờ 00 ngày 28/10/2021, tại nhà số số N đường K, Phường S – thành phố Đ, Đ lấy ma túy đã cất trong ví ra sử dụng rồi ngủ. Đến khoảng 8 giờ 00 cùng ngày, khi Đ đang ngủ trong phòng thì bị Công an Phường 6, Thành phố Đà Lạt phát hiện bắt quả tang thu gi toàn bộ tang vật. Nguyễn Mạnh Đ khai nhận toàn bộ số ma túy và dụng cụ sử dụng ma túy mà Công an thu gi tại phòng Đ ngủ là của Đ, mục đích cất gi để sử dụng cho bản thân.

Tại Kết luận giám định số 1388/GĐ-PC09 ngày 05/11/2021, Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lâm Đồng xác định: Mẫu tinh thể đựng trong một gói nylon được niêm phong (M1) gửi giám định là ma túy, khối lượng là 0,0363g (không phẩy không ba sáu ba gam), loại Ketamine; mẫu một viên nén và các mảnh viên nén được niêm phong (M2) gửi giám định là ma túy, khối lượng 0,6586g (không phẩy sáu năm tám sáu gam), loại MDMA

[3] Xét thấy, bị cáo Nguyễn Mạnh Đ là người đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự; bản thân bị cáo là người sử dụng ma túy. Bị cáo biết rõ việc tàng tr trái phép chất ma túy để sử dụng là vi phạm pháp luật, nhưng là đối tượng nghiện ma túy và để có ma túy sử dụng, bị cáo vẫn thực hiện nhằm thỏa mãn cho nhu cầu cá nhân. Hành vi của Nguyễn Mạnh Đ không chỉ vi phạm pháp luật về chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, xâm phạm trật tự an toàn xã hội tại địa phương mà còn là một trong nh ng nguyên nhân góp phần gây ra nh ng tệ nạn xã hội khác. Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa; lời khai của bị cáo, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và người làm chứng trong quá trình điều tra, phù hợp với tài liệu chứng cứ đã thu thập trong quá trình điều tra vụ án. Có đủ căn cứ kết luận hành vi của Nguyễn Mạnh Đ phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự như cáo trạng số 95/CT-VKS ngày 21/4/2022 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng truy tố và kết luận của Kiểm sát viên tại phiên tòa là hoàn toàn có căn cứ và đúng pháp luật.

[4] Về tình tiết giảm nhẹ: Do bị cáo thành khẩn khai báo thể hiện sự ăn năn hối lỗi về hành vi phạm tội của mình; có nhiều thành tích trong công tác nên áp dụng điểm s khoản 1 và 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự là tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo là phù hợp.

[5] Trong vụ án này, Cơ quan điều tra chưa xác định được đối tượng tên “Quyền” và bạn của Quyền (không rõ nhân thân, lai lịch) là người cung cấp ma túy cho cả nhóm bạn dự sinh nhật tại quán DJ365 đường Hai Bà Trưng, Phường 6 - Đà Lạt nên Cơ quan Điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và sử lý theo quy định.

Ngoài ra, còn có Lương Văn C là người ngủ cùng phòng với Nguyễn Mạnh Đ lúc Công an bắt quả tang. Quá trình điều tra, Chính khai nhận không sử dụng ma túy cùng Đ, không biết dụng cụ và ma túy Công an thu gi tại phòng ngủ của Chính và Đ; không còn chứng cứ nào chứng minh việc Chính liên quan đến hành vi sử dụng ma túy của Đ nên không có cơ sở xử lý đối với Lương Văn Chính.

[6] Quá trình điều tra, Nguyễn Mạnh Đ khai nhận cùng hùn tiền với các đối tượng tên L, H, L1 để ghi đề thắng thua bằng tiền. Hiện nay Cơ quan cảnh sát điều tra chưa làm việc được với các đối tượng này nên tách ra xác minh, khi nào làm rõ xử lý sau. Đồng thời, có Lương Văn C là người ngủ cùng phòng với Nguyễn Mạnh Đ lúc Công an bắt quả tang. Khi thu gi điện thoại của Chính, Cơ quan cảnh sát điều tra phát hiện Chính có hoạt động cho vay thu lãi, đến nay chưa làm việc được với nh ng người vay tiền của Chính nên CQĐT tách ra xác minh, điều tra và xử lý sau.

[7] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Điều tra đã thu gi tang vật gồm: 01 lượng chất tinh thể màu trắng trên đĩa sứ được thu gom vào trong 01 gói nilon màu trắng; 01 gói nylon màu trắng trong một đầu có khóa bằng kẹp nhựa, bên trong có 01 viên nén màu xanh và một số mảnh của viên nén màu xanh, qua giám định xác định đều là chất ma túy, là chất cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Thu gi 01 đĩa sứ màu trắng; 01 thẻ nhựa màu cam và 03 vỏ lọc thuốc lá màu xanh có ch Vinataba, là phương tiện dùng để sử dụng ma túy, không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 đèn laser màu đen và 01 loa màu trắng và tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (làm ống hút) là phương tiền sử dụng ma túy, nên tịch thu sung công quỹ và ban sung công quỹ Nhà nước.

Ngoài ra, còn thu gi của bị cáo Đ 01 điện thoại Iphone 6 và 01 điện thoại Samsung Note 8 màu vàng, có sim 0866899168; thu gi của Lương Văn Chính 01 điện thoại Iphone 7 plus màu đen và 01 điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xanh có sim số 0764567995 liên quan đến hành vi ghi đề và cho vay tiền của Đ và Chính nên giao cho Cơ quan điều tra Công an Thành phố Đà Lạt xác minh, điều tra làm rõ và xử lý theo quy định. Riêng 01 Căn cước công dân mang tên Nguyễn Mạnh Đ, xét thấy không liên quan đến việc giải quyết vụ án và thi hành án nên trả lại cho bị cáo là phù hợp.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Mạnh Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm 1 khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Nguyễn Mạnh Đ 12 (mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2021.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a và c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

2.1. Tịch thu tiêu hủy tang vật gồm:

- 01(một) phong bì niêm phong số 1388/2021-PC09. Mặt trước phong bì ghi: Vụ 2 đối tượng. QĐTC số: 441/QĐ-ĐCSMT, 20/12/2021. Bao gói. Mặt sau có ch ký, họ tên của Phạm Thị Dung, Nguyễn Quang Hưng, Vũ Trần Y Vân, đóng dấu tròn, đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Lâm Đồng.

- 01(một) phong bì niêm phong số 1388/2021-PC09. Mặt trước phong bì ghi: Vụ 2 đối tượng. QĐTC số: 441/QĐ-ĐCSMT, 20/12/2021. Hòan mẫu: M2: 0,5558(g). Mặt sau có ch ký, họ tên của Phạm Thị Dung, Nguyễn Quang Hưng, Vũ Trần Y Vân, đóng dấu tròn, đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Lâm Đồng.

2.2. Tịch thu tiêu hủy 01 (một) đĩa sứ màu trắng; 01 (một) thẻ nhựa màu cam và 03 vỏ lọc thuốc lá màu xanh (gắn trên tờ tiền mệt giá 10.000đ quấn làm ống hút), 2.3. Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01(một) tờ tiền mệnh giá 10.000 đồng (được quấn thành ống hút) và bán sung công quỹ Nhà nước 01 (một) đèn laser màu đen; 01 (một) loa màu trắng;

2.4. Giao cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng 01 (một) điện thoại Iphone 6; 01 (một) điện thoại Samsung Note 8 màu vàng, có sim 0866899168 của Nguyễn Mạnh Đ và 01 (một) điện thoại Iphone 7 plus màu đen; 01 (một) điện thoại Iphone 11 Pro Max màu xanh có sim số 0764567995 của Lương Văn Chính (các điện thoại đã qua sử dụng và được niêm phong) để tiếp tục xác minh, điều tra và xử lý theo quy định.

2.5. Trả cho bị cáo 01 (một) chứng minh nhân dân mang tên Nguyễn Mạnh Đ.

(Theo biên bản giao, nhận tang vật ngày 22/4/2021 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đà Lạt và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đà Lạt).

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Nguyễn Mạnh Đ phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, bị cáo được quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Riêng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời gian nêu trên kể từ ngày nhận được bản sao hoặc niêm yết bản án./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

136
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 92/2022/HS-ST

Số hiệu:92/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;