Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN UYÊN, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 90/2022/HS-ST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 26 tháng 9 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 89/2022/TLST-HS ngày 25 tháng 8 năm 2022 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 92/2022/QĐXXST-HS ngày 12/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Đình Đ; tên gọi khác: Không; giới tính: Nam; sinh năm 1986; Nơi sinh: Huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Nơi cư trú: thôn TR, xã Th, huyện B, tỉnh Bắc Ninh; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 7/12; Con ông Vũ Đình L, sinh năm 1964 và con bà Đào Thị I, sinh năm 1964; Gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1990; con: có 04 con, con lớn nhất sinh năm 2008, con nhỏ nhất sinh năm 2021; Tiền án; tiền sự: Không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 08/2017/HSST ngày 31/3/2017 của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Ninh áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 33 Bộ luật Hình sự, xử phạt Vũ Đình Đ 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, 5.000.000đồng tiền phạt và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Đến ngày 09/5/2017 Vũ Đình Đ chấp hành xong tiền án phí hình sự sơ thẩm và tiền phạt, đến ngày 15/4/2019 Vũ Đình Đ chấp hành xong án phạt tù, hiện đã được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 18/5/2022 đến ngày 27/5/2022 bị cáo bị áp dụng biện pháp tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong cuối tháng 4 năm 2022, Vũ Đình Đ đi lên bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu để nhặt mót quặng vàng. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 18/5/2022 Đ điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24k9-5488 mượn của người đàn ông tên “Trọng” không rõ nhân thân, lai lịch đi từ bãi vàng thuộc bản M đi xuống bản N, xã Ph, huyện Th tìm mua Heroine để sử dụng. Tại bản Noong Thăng, Đ gặp và hỏi mua được một gói Heroine được gói bằng mảnh nilon màu trắng của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân, lai lịch với giá 1.500.000 đồng. Sau khi mua được Heroine, Đ cho gói Heroine vào trong vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng rồi cất vào túi quần bên phải đang mặc sau đó điều khiển xe mô tô đi về bãi vàng. Đến 18 giờ 20 phút cùng ngày khi Đ về đến bản M, xã T, huyện T thì bị Công an xã T kiểm tra, phát hiện, bắt quả tang Vũ Đình Đ về hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý, thu giữ trong túi quần đang mặc của Đ 01 gói Heroine có khối lượng 2,18 gam và 01 xe mô tô nhãn hiệu Soem TAIWAN mdi, BKS: 24K9- 5488, màu sơn xanh, đen; số máy: VTT08JL1P52FMH004312, số khung: RKWCHUM6XS04312, xe đã qua sử dụng.

Ngày 18/5/2022 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên đã tiến hành thành lập hội đồng mở niêm phong, xác định khối lượng, lấy mẫu vật giám định và niêm phong vật chứng. Tại kết luận giám định số 30/KL-TCGĐ ngày 18/5/2022 của người giám định tư pháp, kết luận vật chứng nghi là chất ma túy thu giữ của Vũ Đình Đ có khối lượng là 2,18 gam. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên đã trích 0,21 gam trong tổng số 2,18 gam chất bột khô, màu trắng thu giữ của Vũ Đình Đ theo Đ khai nhận là Heroine gửi giám định. Tại kết luận giám định số 435/GĐ-KTHS ngày 23/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: “01 (một) Mẫu chất bột, màu trắng gửi giám định là ma túy, loại: Heroine .

Bản cáo trạng số 58/CT-VKS-TU ngày 24/8/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên đã truy tố bị cáo Vũ Đình Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về Bản Kết luận điều tra số 50/KLĐT ngày 15/8/2022 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên và Bản Cáo trạng nêu trên.

Tại phiên tòa, vị đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo và xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung Bản cáo trạng, không có ý kiến tranh luận đối với quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên.

Tại lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Tân Uyên, Điều tra viên,Viện kiểm sát nhân dân huyện Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tính chất mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội:

Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là phù hợp với nội dung vụ án, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thu thập hợp pháp. Như vậy, có đủ cơ sở để xác định:

Hi 18 giờ 20 phút, ngày 18/5/2022, tại bản Mít Thái, xã Pắc Ta, huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu, bị cáo Vũ Đình Đ đã có hành vi tàng trữ trái phép 01 gói Heroine có khối lượng 2,18 gam, mục đích để sử dụng thì bị Công an xã Pắc Ta huyện Tân Uyên phát hiện, bắt quả tang. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, quan điểm đề nghị về tội danh, mức hình phạt đối với bị cáo của vị đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là hoàn toàn có cơ sở, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Khi thực hiện hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được việc tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, có tính chất nghiêm trọng, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, gây mất trật tự trị an trên địa bàn nên cần được xử lý nghiêm minh.

[3] Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

Về nhân thân: Ngày 31/3/2017 Tòa án nhân dân huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh xử phạt bị cáo 36 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt 5.000.000 đồng và 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, bị cáo đã chấp hành xong hình phạt chính, hình phạt bổ sung và án phí, đến thời điểm phạm tội bị cáo đã được xóa án tích; khi bị công an phát hiện bắt quả tang có xét nghiệm chất ma túy thì bị cáo có sử dụng chất ma túy (dương tính).

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Do vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Không có.

Tn cơ sở tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo. Xét thấy bị cáo đã từng bị Tòa án xét xử nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng, rèn luyện bản thân, sau khi chấp hành xong hình phạt bị cáo lại tiếp tục phạm tội nên cần thiết phải xử bị cáo hình phạt tù nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để tiếp tục răn đe, giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội [4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền nhưng bị cáo nghề nghiệp lao động tự do, nguồn thu nhập không ổn định, không có tài sản riêng gì. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng của vụ án:

1,97 gam Heroine, 01 mảnh nilon màu trắng, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng xét thấy cần tịch thu tiêu hủy theo Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

01 xe mô tô nhãn hiệu Soem TAIWAN mdi, BKS: 24K9-5488, màu sơn xanh, đen, số máy: VTT08JL1P52FMH004312, số khung: RKWCHUM6XS04312, xe đã qua sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe mô tô trên do Vũ Đình Đ mượn của người đàn ông tên “Trọng” không rõ nhân thân, lai lịch là người nhặt mót quặng vàng cùng Đ ở bãi vàng bản M, xã T, huyện T. Kết quả điều tra không xác định được người đàn ông này và qua xác minh dữ liệu về phương tiện giao thông đường bộ không tìm thấy dữ liệu về chiếc xe mô tô trên. Công an huyện Tân Uyên đã ra thông báo truy tìm chủ tài sản đối với chiếc xe mô tô trên nhưng hiện chưa có kết quả. Xét thấy đây là phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước.

[6] Những vấn đề liên quan:

Về nguồn gốc 2,18 gam Heroine bị cáo khai mua của một người phụ nữ dân tộc Mông không rõ nhân thân, lai lịch ở bản N, xã Ph, huyện Tha, quá trình điều tra không xác định được người phụ nữ này nên không có căn cứ để xử lý.

Đi với người đàn ông tên “Trọng” đã cho bị cáo Vũ Đình Đ mượn xe mô tô sau đó bị cáo Đ điều khiển đi mua Heroine, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của người đàn ông này nên không có căn cứ để xử lý.

[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135; Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106; Điều 135; Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12- 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Đình Đ phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/5/2022.

Min hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

3. Về vật chứng:

Tch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư của Công an huyện Tân Uyên, màu trắng, hình chữ nhật, bên trong đựng 1,97 gam Heroine; 01 mảnh nilon màu trắng; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Soem TaiWan mdi, biển kiểm soát 24K9-5488, màu sơn xanh đen, số máy VTT08JL1P52FMH004312, số khung RKWCHUM6XS04312, xe đã qua sử dụng, xe chỉ có gương chiếu hậu bên trái, mặt đồng hồ Km được buộc cố định bằng sợi dây cao su màu đen, xe không có yếm hai bên, không có nắp sau trên đèn hậu, có giá chở hàng phía đuôi xe.

(Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng vào hồi 15 giờ 00 phút ngày 19/9/2022 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Tân Uyên với Chi Cục thi hành án dân sự huyện Tân Uyên) 4. Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án lên Tòa án nhân dân cấp trên.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

135
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 90/2022/HS-ST

Số hiệu:90/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Uyên - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;