Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 89/2023/HS-ST NGÀY 25/10/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 10 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Q, thành phố Hà Nội, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 85/2023/TL ST - HS ngày 10 tháng 10 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 86/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 10 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Hoàng Đức T, sinh năm 1994; Tên gọi khác: không; Nơi ĐKHKTT: Thôn Quăn, xã BT, huyện VC, tỉnh Y; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Giới tính: Nam; Trình độ học vấn: 11/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Tày; Tôn giáo: không; Con ông: Hoàng Văn H và bà: Hoàng Thị T1; Vợ: Hoàng Thị H1 (đã ly hôn) và có 01 con sinh năm 2014;

Tiền án: Bản án số 27/2021/HSST ngày 26/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện VC, tỉnh Y xử phạt 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 07/9/2022 đã chấp hành xong hình phạt tù, đã nộp án phí HSST, chưa nộp án phí DSST và chưa bồi thường cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan;

Tiền sự: Không;

Nhân thân: Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 24/QĐ-XPVPHC ngày 31/3/2016 xử phạt Hoàng Đức T 750.000đ về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa nộp tiền phạt nhưng đã hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt nên được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/7/2023. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Nguyễn Tất D – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hoàng Đức T là người sử dụng ma túy heroine từ năm 2016. Khoảng 12 giờ 15 phút ngày 04/7/2023, do có nhu cầu sử dụng ma túy và được bạn bè xã hội giới thiệu trước đó nên T đi bộ từ nơi làm việc ở công trường xây dựng Bệnh viện Phụ sản trung ương 2 tại thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ, huyện Q, Hà Nội đến Km 20 + 200 đường gom phía nam Đại lộ Thăng Long thuộc thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ mua được hai gói giấy bạc màu trắng bên trong chứa ma túy Heroine được đựng trong một vỏ bao thuôc lá Thăng Long màu vàng với giá 200.000 đồng của một nam giới khoảng 30 tuổi, cao 1m65, người gầy, mặc trang phục áo cộc tay màu trắng, quần đùi màu đen, ngồi trên xe mô tô nhãn hiệu Nouvo không rõ biển kiểm soát. Sau đó T đi bộ về công trường. Khoảng 13 giờ 05 phút cùng ngày, khi T đi bộ được khoảng 50 mét, đến địa phận thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ, huyện Q thì bị Cơ quan Công an yêu cầu kiểm tra hành chính, phát hiện, thu giữ tại tại túi quần phía trước bên trái T đang mặc: một vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng, bên trong có hai gói giấy bạc, kích thước mỗi gói khoảng (1,5x1)cm, bên trong đều chứa chất bột màu trắng là ma túy Heroine. Tại chỗ, T khai nhận hai gói chất bột màu trắng là ma túy Heroine của T vừa mua với mục đích để sử dụng cho bản thân. Cơ quan Công an tiến hành thu giữ niêm phong tang vật đồng thời lập biên bản, đưa T cùng tang vật về trụ sở làm rõ. Ngoài ra, Cơ quan Công an còn tạm giữ của T 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen, bên trong lắp sim số 0388.678.197. Xét nghiệm chất ma túy đối với Hoàng Đức T cho kết quả dương tính với ma túy.

Tại Kết luận giám định số 4609/KL-KTHS 11/7/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an TP Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 02 gói giấy bạc là ma túy loại Heroine có tổng khối lượng 0,142 gam.

Quá trình điều tra vụ án, Hoàng Đức T đã khai nhận T bộ hành vi phạm tội của mình, phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được.

Bản cáo trạng số 81/CT – VKSQO ngày 06 tháng 10 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q đã truy tố bị cáo Hoàng Đức T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

* Bị cáo khai nhận hành vi của mình như đã khai tại cơ quan điều tra và nội dung bản cáo trạng.

* Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Q giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt Hoàng Đức T từ 18 tháng đến 24 tháng tù.

- Về hình phạt bổ sung: không áp dụng do bị cáo không có thu nhập ổn định.

- Về vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy: T bộ số ma túy là Heroin, 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

+ Sung công chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen đã qua sử dụng do bị cáo không có nhu cầu sử dụng.

- Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

* Người bào chữa trình bày: không có ý kiến gì về tội danh. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi của mình, ăn năn hối cải. Mục đích mua ma túy để sử dụng cho bản thân, khối lượng ma túy là mức thấp nhất theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người dân tộc, sinh sống vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, ông bà ngoại là người có công với cách mạng. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

Nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án: Bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật, xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã khai báo và không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 13 giờ 05 ngày 04/7/2023, tại km 20 + 200 đường gom phía nam Đại lộ Thăng Long thuộc thôn Ngọc Than, xã Ngọc Mỹ, huyện Q, thành phố Hà Nội, Hoàng Đức T đang có hành vi tàng trữ trái phép 0,142 gam ma túy loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân, nhưng chưa kịp sử dụng thì bị bắt giữ cùng T bộ vật chứng.

Hành vi nêu trên của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q truy tố bị cáo là có căn cứ, đúng pháp luật.

Là đối tượng nghiện hêroin bị cáo biết rõ tác hại của ma túy đối với sức khỏe cũng như kinh tế của bản thân nhưng do không thể cai nghiện được nên vẫn tìm mua heroin để sử dụng. Khi bị cáo đang tàng trữ số ma túy vừa mua được thì bị cơ quan công an kiểm tra và bắt giữ. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bản thân bị cáo đang là đối tượng bị áp dụng biện pháp quản lý của UBND xã BT, huyện VC, tỉnh Y do sử dụng trái phép ma túy. Do đó, cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[3]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Ngày 07/9/2022 bị cáo mới chấp hành xong hình phạt tù tại bản án số 27/2021/HSST ngày 26/8/2021 của Tòa án nhân dân huyện VC, tỉnh Y. Do vậy, lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Là người dân tộc thiểu số, thuộc vùng kinh tế đặc biệt khó khăn; Ông bà ngoại là người có công với cách mạng, được Nhà nước tặng huân huy chương kháng chiến nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4]. Về hình phạt bổ sung: do bị cáo không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[5]. Về vật chứng:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,142 gam ma túy loại heroin là vật nhà nước cấm lưu hành. Sau khi lấy mẫu giám định, số ma túy còn lại được niêm phong trong 01 phong bì màu trắng, mặt sau có chữ ký của bị cáo, giám định viên và chữ ký của cán bộ công an; 01 vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Sung công quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim do bị cáo không đề nghị nhận lại.

[6]. Bị cáo không biết tên, tuổi, địa chỉ của đối tượng bán ma túy. Việc mua bán ma túy diễn ra trực tiếp, không thông qua điện thoại di động và tại địa điểm mua bán ma túy không có camera ghi hình. Cơ quan CSĐT đã tiến hành xác minh về đối tượng bán ma túy theo như mô tả của bị cáo nhưng không xác định được. Vì vậy, Cơ quan điều tra không có căn cứ tiếp tục xác minh làm rõ.

[7]. Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Hoàng Đức T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

Xử phạt bị cáo Hoàng Đức T 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/7/2023.

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì màu trắng niêm phong dán kín, mặt sau có chữ ký của bị cáo, chữ ký của giám định viên và chữ ký của cán bộ công an xã Ngọc Mỹ, huyện Q, thành phố Hà Nội; 01 (một) vỏ bao thuốc lá Thăng Long màu vàng.

- Sung công quỹ Nhà nước 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đỏ đen đã qua sử dụng, bên trong lắp 01 sim.

Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 07/2024/THA ngày 24/10/2023 giữa Công an huyện Q và Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, thành phố Hà Nội.

3. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về chế độ án phí, lệ phí Tòa án.

Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2023/HS-ST

Số hiệu:89/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quốc Oai - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/10/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;