Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2020/HSST 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐÔNG HÀ, TỈNH QUẢNG TRỊ

BẢN ÁN 89/2020/HSST NGÀY 22/10/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22/10/2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị (Địa chỉ: Số 45 Lê Lợi, thành phố Đông Hà), xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 87/2020/HSST ngày 09/10/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 91/2020/QĐXXST-HS ngày 12/10/2020, đối với bị cáo, Phan Văn T, sinh ngày 25/01/1994, tại Quảng Trị; Nơi cư trú: Khu phố S, Phường N, thành phố ĐH, tỉnh Quảng Trị; Nghề nghiệp: Phụ xe; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phan T, sinh năm 1960 và bà Phạm Thị A, sinh năm 1965; Vợ là Lê Thị Thùy T, sinh năm 1999, có 01 con sinh năm: 2019; Gia đình bị cáo có 04 chị em, bị cáo là con thứ tư.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Ngày 18/10/2011, Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị ra Quyết định xử phạt hành chính đối với Phan Văn T về hành vi “Trộm cắp tài sản” bằng hình thức phạt tiền.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 26/6/2020, sau đó, chuyển tạm giam cho đến nay tại Trại tạm giam- Công an tỉnh Quảng Trị. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

[1] Khoảng 12 giờ ngày 26/6/2020, Phan Văn T đến quán Internet Skynet;

Địa chỉ: Số 02 Cửa Tùng, Khu phố 7, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị để chơi điện tử. Tại đây, T mua 09 viên ma túy của 01 nam thanh niên tên Bảo (không rõ lai lịch, địa chỉ), với giá 400.000 đồng. Có ma túy, T cầm ở tay trái để chuẩn bị sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị Công an thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, phát hiện, bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ: 01 đoạn ống nhựa màu trắng, bên trong chứa 09 viên nén hình tròn, màu hồng, bề mặt mỗi viên có chữ WY.

[2] Kết luận giám định: Tại bản kết luận giám định số 503/KLGĐ ngày 01/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Trị, kết luận: 09 viên nén màu hồng thu giữ của Phan Văn T có khối lượng 0,8714 gam là Ma túy loại Methamphetamine.

[3] Cáo trạng truy tố: Cáo trạng số 92/CT-VKSĐH ngày 08/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, truy tố bị cáo Phan Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

[4] Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phan Văn T phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo từ 17 đến 19 tháng tù.

- Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự để tịch thu tiêu hủy toàn bộ ma túy, bao gói sau giám định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Hoạt động tố tụng:

Quá trình điều tra- truy tố- xét xử: Cơ quan tiến hành tố tụng- Người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định pháp luật tố tụng hình sự trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử; bị cáo đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn T không có ý kiến hoặc khiếu nại đối với hoạt động tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng- Người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử.

[2] Nội dung vụ án:

Tại phiên tòa, bị cáo Phan Văn T khai nhận toàn bộ hành vi cất giấu 09 viên ma túy như nội dung bản cáo trạng truy tố. Lời khai nhận tại phiên tòa, phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố; đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đó là: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản thu giữ đồ vật; Kết luận giám định đối với đồ vật thu giữ. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 12 giờ ngày 26/6/2020, tại quán Internet Skynet; Địa chỉ: Số 02 Cửa Tùng, Khu phố 7, Phường 1, thành phố Đông Hà, tỉnh Quảng Trị, Phan Văn T có hành vi cất giữ trong người 0,8714 gam là Ma túy loại Methamphetamine, với mục đích sử dụng. Như vậy, hành vi nêu trên của Phan Văn T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không chỉ trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý các chất ma túy của nhà nước mà còn gây mất trật tự an ninh ở địa phương nên phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục, răn đe, phòng, ngừa và đẩy lùi loại tội phạm này hiện đang có chiều hướng gia tăng trên địa bàn thành phố Đông Hà. Tuy nhiên, khi lượng hình Hội đồng xét xử xét thấy, quá trình điều tra, truy tố và xét xử, bị cáo đã thành khẩn khai báo toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên phải áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

Xem xét tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và tội phạm mà T gây ra trong vụ án này. Hội đồng xét xử xét thấy, việc không áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là gây nguy hiểm cho xã hội; ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Để đáp ứng nhiệm vụ chính trị trên địa bàn thành phố Đông Hà “Đẩy lùi tệ nạn ma túy” cần phải áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là có căn cứ và cần thiết.

Thời gian bị cáo bị tạm giữ sau đó chuyển tạm giam được tính vào thời hạn chấp hành án.

Đối với hành vi bán ma túy cho T của nam thanh niên tên “Bảo”: Cơ quan điều tra đã áp dụng các biện pháp nghiệp vụ nhưng không có kết quả nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về vật chứng: Ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì ký kiệu PS3 057933. Bên ngoài túi niêm phong có chữ ký của những người tham gia niêm phong, hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Trị- Là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Phan Văn T, phạm tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Về trách nhiệm hình sự: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt, Phan Văn T 17 (Mười bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ sau đó chuyển tạm giam là ngày 26/6/2020.

2. Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy: Ma túy và bao gói hoàn lại sau giám định được niêm phong trong một phong bì ký kiệu PS3 057933. Bên ngoài túi niêm phong có chữ ký của những người tham gia niêm phong, hình dấu của Phòng kỹ thuật hình sự- Công an tỉnh Quảng Trị.

Vật chứng hiện có tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 16 tháng 10 năm 2020, giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Đông Hà với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Đông Hà.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí, Buộc bị cáo Phan Văn T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.                                                                   

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 89/2020/HSST 

Số hiệu:89/2020/HSST 
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đông Hà - Quảng Trị
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;