Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 25/08/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 25 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 70/2022/TLST-HS ngày 02 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2022/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 8 năm 2022, đối với bị cáo:

Họ và tên: Lâm Tuấn T, tên gọi khác: Không, sinh ngày 18/10/1998, tại tỉnh Lâm Đồng; nơi đăng ký thường trú và nơi cư trú: số 9/36 T, tổ 16, phường L, Tp. B, tỉnh Lâm Đồng; giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; nghề nghiệp: Buôn bán; con ông Lâm T T, sinh năm 1968 và bà Nguyễn Thị G, sinh năm 1972; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn: Tạm giam tại Nhà tạm gi Công an Tp. B, tỉnh Lâm Đồng từ ngày 18/5/2022 cho đến nay. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 11 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Tp. B đã phối hợp với Công an phường 1, Tp. B tiến hành kiểm tra đối với Lâm Tuấn T và Trần Văn C, sinh năm 2004, nơi đăng ký thường trú: thôn 3, xã H, huyện D, Lâm Đồng đang ở khu vực đường trước số nhà 40 L, phường 1, Tp. B do nghi vấn các đối tượng này đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Sau khi được vận động, thuyết phục thì Lâm Tuấn T đã tự nguyện giao nộp 01 gói nylon có rảnh khép kín, vạch kẻ ngang màu xanh, kích thước 04cm x 04cm chứa chất tinh thể rắn màu trắng mà T đang cất giấu trong túi quần phía trước bên trái đang mặc cho Cơ quan Công an Tp. B. T khai nhận chất tinh thể rắn màu trắng mà T tàng trữ là ma túy đá. Do đó, Công an Tp. B đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và thu giữ toàn bộ số ma túy nói trên.

Quá trình điều tra xác định nội dung cụ thể như sau: Vào tối ngày 17/5/2022, Lâm Tuấn T đi đến quán karaoke Havana, thuộc phường 1, Tp. B và nhờ một người T niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) mua hộ 3.200.000 đồng ma túy. Sau đó, người này đưa cho T 01 gói nilon có rãnh khép kín màu xanh, kích thước 04cm x 04cm, bên trong có chứa ma túy. T lấy ra 01 ít để sử dụng, số còn lại T giấu trong túi quần phía trước đang mặc trên người để sử dụng dần. Đến khoảng 11 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, khi T đang ngồi sau xe mô tô biển số 49K1-X do Trần Văn C điều khiển thì bị Công an dừng xe kiểm tra phát hiện và bắt quả tang khi đang tàng trữ số ma túy trên.

Tại Kết luận giám định số 574/KL-KTHS ngày 23/5/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Lâm Đồng xác định: mẫu tinh thể đựng trong 01 gói nylon được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng 1,0732g, loại Ketamine.

Ketamine là chất ma túy nằm trong Danh mục III, STT: 35, Nghị Định 73/2018/NĐ-CP ngày 15/5/2018 của Chính phủ.

Bản Cáo trạng số 89/CT-VKSBL, ngày 27 tháng 7 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Lâm Tuấn T về tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa:

+ Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng gi nguyên Cáo trạng đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lâm Tuấn T phạm tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lâm Tuấn T từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Quá trình điều tra, cơ quan Công an thành phố B, tỉnh Lâm Đồng đã thu gi : Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm:

02 phong bì niêm phong số 574/2022-PC09.

Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

+ Bị cáo khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố và luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến gì về bản Cáo trạng và không có tranh luận, đối đáp gì với Kiểm sát viên.

+ Bị cáo nói lời sau cùng: Nhận thức được hành vi phạm tội là vi phạm pháp luật, sai trái, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm đoàn tụ gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Kiểm sát viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng, trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Hành vi cấu thành tội phạm: Hội đồng xét xử nhận thấy, tại phiên tòa bị cáo Lâm Tuấn T đã khai và thừa nhận hành vi phạm tội phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra; nội dung bản Cáo trạng đã truy tố; luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa; nội dung bản Kết luận điều tra; nội dung Kết luận giám định; biên bản bắt người phạm tội quả tang; lời khai của nh ng người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ chứng minh đã được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do Bộ luật Tố tụng hình sự qui định và đã được kiểm tra tại phiên tòa.

Như vậy, có đủ căn cứ kết luận: Vào ngày 17/5/2022, Lâm Tuấn T mua 3.200.000 đồng ma túy từ một người thanh niên (chưa xác định được nhân thân, lai lịch) để mang về nhà sử dụng. Sau khi sử dụng, T cất giấu số ma túy còn lại trong túi quần phía trước đang mặc trên người. Đến khoảng 11 giờ 20 phút ngày 18/5/2022, khi T được Trần Văn C chở đến khu vực trước số nhà 40 L, phường 1, Tp. B thì bị Công an Tp. B kiểm tra, phát hiện lập biên bản bắt người quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy có khối lượng 1,0732g, loại Ketamine, mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được qui định tại điểm g khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất và mức độ của tội phạm: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến khách thể là chính sách thống nhất quản lý của Nhà nước về chất ma túy, trực tiếp là hoạt động tàng trữ chất ma túy được pháp luật bảo vệ. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý có khối lượng 1,0732g bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vì thái độ xem thường pháp luật, cũng như nhằm mục đích thoả mãn cho nhu cầu sử dụng ma tuý của bản thân nên bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội đến cùng. Bị cáo thực hiện tội phạm nghiêm trọng, gây mất trật tự, an toàn xã hội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm để răn đe, giáo dục và phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[6] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[7] Căn cứ vào qui định của Bộ luật Hình sự, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử thấy, cần cách ly khỏi xã hội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù tại cơ sở giam gi trong một thời hạn nhất định tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra.

[8] Phạt bổ sung: Miễn phạt bổ sung.

[9] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, xử lý như sau:

Vật chứng, chứng minh tội phạm, không còn giá trị sử dụng, tịch thu tiêu hủy, gồm: 02 phong bì niêm phong số 574/2022-PC09.

[10] Các vấn đề khác:

Trong vụ án có đối tượng là người đã bán trái phép chất ma túy cho bị cáo T.

Tuy nhiên, quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Công an Tp. B tiếp tục xác minh khi có đủ căn cứ thì xử lý sau.

Đối với anh Trần Văn C, là người đi cùng với T. Quá trình điều tra xác định, anh Châu không biết nguồn gốc số ma túy mà T tàng trữ do đâu mà có và không có hành vi giúp sức gì cho T nên không xem xét trách nhiệm hình sự.

[11] Xét ý kiến trình bày luận tội và quan điểm giải quyết vụ án của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa là phù hợp với các tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, đã được kiểm tra tại phiên tòa là có căn cứ chấp nhận.

[12] Về chi phí tố tụng: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lâm Tuấn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Về hình phạt: Áp dụng điểm g khoản 1 Điều 249; Điều 38 và điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Lâm Tuấn T 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/5/2022.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và căn cứ Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu huỷ gồm: 02 phong bì niêm phong số 574/2022-PC09. Theo biên bản bàn giao vật chứng, tài sản ngày 29/7/2022 gi a cơ quan Công an thành phố B và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B, tỉnh Lâm Đồng.

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội qui định về ..., án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lâm Tuấn T phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

13
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bảo Lộc - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;