Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 86/2022/HS-ST NGÀY 02/06/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 85/2022/TLST- HS ngày 13 tháng 5 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2022/QĐXXST- HS ngày 20 tháng 5 năm 2022 đối với bị cáo:

Dương Văn T (tên gọi khác: Không), sinh ngày 02/11/1987; Nơi sinh huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: Bản TN, xã CH, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Dương Văn T; con bà Nguyễn Thị V; Có vợ Phạm Thị N và có 02 con.

Tiền sự: Không.

Tiền án: Năm 2019 bị Tòa án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xử phạt 21 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy theo bản án số: 186/2019/HSST ngày 22/10/2019.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 16/01/2022 đến cho đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Dương Văn T1 , sinh năm: 1968; Nơi cư trú: Bản Ta Niết, xã C, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 21 giờ 00 phút ngày 15/01/2022 tổ công tác Công an xã C làm nhiệm vụ tại bản Co Lìu, xã C, huyện Mộc Châu tiến hành kiểm tra đối với Dương Văn T đang điều khiển xe máy BKS 17H9-1164. Qua kiểm tra phát hiện trong túi quần bên phải đang mặc của Tuyền đang cất giấu trong người 01 gói nilon màu xanh bên trong đựng 99 viên nén màu hồng (Dương Văn T khai nhận đó là ma tuý). Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, niêm phong vật chứng theo quy định, ngoài ra tạm giữ 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda – Dream BKS - 17H9-1164.

Ngày 16/01/2022 tại Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, cân tịnh lấy mẫu trưng cầu giám định: 99 viên nén màu hồng có khối lượng 9,82 gam. Kết quả giám định là ma túy; loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Bản thân nghiện chất ma túy, khoảng 19 giờ ngày 15/01/2022, Tuyền điều khiển xe máy BKS 17H9-1164 đi đến xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu tại khu vực đường dân sinh bản Ông Lý, xã Chiềng Khừa, huyện Mộc Châu, T gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết 99 viên hồng phiến gói bằng nilon màu xanh với giá 1.200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong túi quần trái rồi điều khiển xe đi về, khi T về đến bản Cò Lìu, xã C, huyện Mộc Châu thì gặp tổ công tác Công an xã C kiểm tra, phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do các hành vi nêu trên, tại bản cáo trạng số: 53/CT-VKS, ngày 13 tháng 5 năm 2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị cáo Dương Văn T về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo Dương Văn T khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng nêu.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Dương Văn T từ 06 năm đến 07 năm tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự. Điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự đề nghị. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bên trong đựng 9,32 gam Methamphetamine, túi nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong đựng Test thử ma túy.

- Chấp nhận Cơ quan điều tra trả cho ông Dương Văn T1 01 chiếc xe máy BKS 17H9-1164.

- Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nhất trí với nội dung cáo trạng đã truy tố và quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa, không có tranh luận gì, lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện kiểm sát huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được quy định trong tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo, người liên quan không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản cáo trạng đã nêu và khẳng định lời khai báo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn tự nguyện đúng với hành vi bị cáo đã thực hiện. Lời khai nhận của bị cáo được thẩm tra tại phiên tòa, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai người làm chứng, vật chứng thu giữ, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 15/01/2022 Dương Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 9,82 gam (Chín phẩy tám mươi hai gam) ma túy loại Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang. Hành vi của Dương Văn T đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định Điều 249 Bộ luật hình sự. Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố Dương Văn T là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Xét về khung hình phạt áp dụng đối với bị cáo và mức độ của hành vi phạm tội của bị cáo: Bị cáo tàng trữ để bán khối lượng 9,82 gam Methamphetamine đã vi phạm tình tiết định khung hình phạt theo điểm g “Heroine, cocaine, Methamphetamine......có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ 05 năm đến 10 năm tù. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, mặc dù nhận thức được mọi hành vi liên quan đến chất ma túy đều bị Nhà nước nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương và là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Do đó cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời giúp bị cáo từ bỏ chất ma túy trở thành người có ích cho gia đình và xã hội và đảm bảo biện pháp răn đe, giáo dục riêng và phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

[4] Về nhân thân và tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo là đối tượng nghiện chất ma túy, có 01 tiền án về tội tàng trữ chất ma túy chưa được xóa án tích nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để rèn luyện bản thân nay lại phạm tội mới chứng tỏ bị cáo coi thường pháp luật. Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích nên thuộc thường hợp “tái phạm” theo quy định h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự, quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nhận tội, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung (phạt tiền): Xét thấy qua xác minh bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định, là đối tượng nghiện chất ma túy, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, không có tài sản riêng có giá trị, nên không áp dụng đối với bị cáo là phù hợp.

[6] Về vật chứng của vụ án: Đối với 01 phong bên trong đựng 9,32 gam Methamphetamine, túi nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong đựng Test thử ma túy, là vật Nhà nước cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về nguồn gốc chất ma túy:

- Đối với người phụ nữ dân tộc Mông không quen biết bán ma túy cho bị cáo như bị cáo khai, do không biết tên, tuổi, địa chỉ người này nên không có căn cứ điều tra xử lý.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu HONDA loại DREAM, BKS 17H9- 1164 cáo sử dụng đi mua ma túy, qua xác minh chiếc xe là tài sản hợp pháp của ông Dương Văn T1 (Bố đẻ bị cáo), trú tại bản TN, xã CH, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La cho bị cáo mượn, việc bị cáo Tuyền mang đi mua ma túy ông T1 không biết, không liên quan, nên ngày 18/4/2022 Cơ quan điều tra huyện Mộc Châu đã trao trả lại cho ông T1, ông T1 đã nhận được tài sản và không có ý kiến gì, Xét là phù hợp cần chấp nhận.

- Thời hạn tạm giam của bị cáo còn trên 45 ngày, nên Hội đồng xét xử không ra quyết định tạm giam đối với bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm g khoản 2 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự;

1. Tuyên bố bị cáo Dương Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Xử phạt bị cáo Dương Văn T 06 (sáu) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/01/2022.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Chấp nhận việc Cơ quan điều tra Công an huyện Mộc Châu đã giao trả 01 chiếc xe máy BKS 17H9 – 1164 cho ông Dương Văn T1 quản lý, sử dụng.

3. Vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điểm a,c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bên trong đựng 9,32 gam Methamphetamine, túi nilon màu xanh và vỏ gói niêm phong ban đầu; 01 phong bì bên trong đựng Test thử ma túy.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục thi hành án Dân sự huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La, theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/5/2022).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Bị cáo Dương Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 đồng.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (02/6/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

42
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 86/2022/HS-ST

Số hiệu:86/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;