TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA
BẢN ÁN 83/2024/HS-ST NGÀY 16/04/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 16/4/2024, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện C xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 81/2024/ TLST-HS ngày 26/3/2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 89/2024/QĐXXST-HS ngày 04/4/2024 đối với bị cáo:
Lò Văn H; tên gọi khác: Không; sinh năm 1987 tại huyện T, tỉnh S; nơi cư trú: Bản A, xã B, huyện T, tỉnh S; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ học vấn: 01/12; dân tộc: Thái; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Đảng phái, đoàn thể: Không; con ông Lò Văn T, đã chết và bà Lò Thị L, sinh năm 1937; chưa có vợ, con; tiền án : Không ; tiền sự : Tại Quyết định số 206/QĐ- UBND ngày 26/12/2022 bị UBND xã B, huyện T ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý với thời hạn 01 năm kể từ ngày 26/12/2022 (ngày 26/12/2023 đã chấp hành xong, chưa được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính); bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 11/01/2024 đến nay, có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 08 giờ 00 ngày 19/12/2023, Lò Văn H từ nhà một mình bắt xe khách đi sang Bản N, xã N, huyện S, tỉnh S để dự đám cưới người quen. Sau khi khi dự đám cưới xong, H đi ra bụi cây phía sau rạp cưới để đi vệ sinh thì gặp một người đàn ông đang sử dụng ma túy (H không biết tên tuổi địa chỉ của người đàn ông đó). H hỏi người đàn ông: “Có ma túy bán không? Bán cho em chín mươi nghìn", người đàn ông đồng ý. H đưa số tiền 90.000 đồng cho người đàn ông, người đàn ông cầm tiền và đưa cho H 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa Heroine. Sau khi mua được ma túy H bỏ một ít sử dụng bằng hình thức hít, số Heroine còn lại H gói lại, cất vào túi áo khoác đằng trước bên phải H đang mặc rồi đi về nhà. H cất gói ma túy với mục đích để những lúc uống rượu, thèm chất ma túy sẽ đem ra sử dụng.
Đến ngày 11/01/2024 khi H đang ở nhà thì bị tổ công tác Công an xã B kiểm tra phát hiện 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa Heroine ở bên trong túi áo khoác đằng trước bên phải H đang mặc. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Vật chứng thu giữ: 01(một) gói ni lon màu trắng bên trong có chứa chất bột cục màu trắng nghi là Heroine (Lò Văn H khai nhận là Heroine).
Đến 22 giờ 10 phút ngày 11/01/2024, tại Công an huyện T, tỉnh S đã tiến hành cân tịnh số bột màu trắng có trong gói ni lon màu trắng nghi là Heroine thu giữ của Lò Văn H xác định được khối lượng 0, 12 g (không phẩy mười hai gam) trích toàn bộ 0,12 g làm mẫu gửi giám định chất ma túy ký hiệu H1.
Tại bản Kết luận giám định số: 330/KL-KTHS ngày 12/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S kết luận: Mẫu ký hiệu H1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine (Heroin), có tên Khoa học là DiacetyImorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/ NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất, khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,12 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là 0, 12 gam, loại Heroine (Heroin), có tên Khoa học là Diacetylmorphine, được quy định tại Bộ luật hình sự 2015 ( sửa đổi bổ sung năm 2017) và Nghị định số 57/2022/ NĐ - CP ngày 25/8/2022 của Chính Phủ quy định các danh mục chất ma túy và tiền chất; mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định.
Tại bản cáo trạng số: 36/CT-VKS ngày 26/3/2024, của Viện kiểm sát nhân dân huyện C đã truy tố bị cáo Lò Văn H về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.
Tại phiên toà, bị cáo Lò Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình thừa nhận bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội.
Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C trình bày lời luận tội, sau khi phân tích đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, cũng như qua xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.
p dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Lò Văn H từ 18 đến 24 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: p dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Tịch thu tiêu hủy: Một mảnh nilon trắng + Một vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
Bị cáo tự bào chữa: Nhất trí với phần luận tội của kiểm sát viên, đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện T, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện T, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo và những người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa hôm nay không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về tình tiết định tội, định khung hình phạt: Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo đã khai nhận: Để có ma tuý sử dụng, 11/01/2024, Lò Văn H đã có hành vi mua cất giấu trái phép 0,12 gam Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân và đã bị Tổ công tác công an xã B, huyện T, tỉnh S phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng. Tại phiên tòa bị cáo giữ nguyên lời khai tại cơ quan điều tra, bị cáo hoàn toàn nhất trí với hành vi phạm tội như Bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với các chứng cứ như: Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập ngày 11/01/2024; Biên bản bóc mở niêm phong, cân tịnh vật chứng lấy mẫu gửi giám định và niêm phong lại; Kết luận giám định số 330/KL-KTHS ngày 12/01/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh S và phù hợp với các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.
Như vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Lò Văn H đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng số: 36/CT-VKS ngày 26/3/2024 của VKSND huyện C truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản nêu trên của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3] Xét về tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo:
Bị cáo là người có năng lực chịu trách nhiệm về hình sự, biết rõ chất ma túy là chất Nhà nước nghiêm cấm mua bán, tàng trữ, vận chuyển và sử dụng, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội, tiếp tay cho các đối tượng hám lời có cơ hội lưu thông buôn bán ma túy.
[4] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, nhưng có nhân thân xấu, năm 2022 bị UBND xã B, huyện T ra Quyết định áp dụng biện pháp quản lý người sử dụng trái phép chất ma tuý với thời hạn 01 năm kể từ ngày 26/12/2022, ngày 26/12/2023 đã chấp hành xong.
Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Sau khi phạm tội, bị cáo thành khẩn khai báo, tại phiên tòa tỏ ra ăn năn hối cải nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phần nào đối với bị cáo.
Từ sự phân tích trên, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục bị cáo, đồng thời nhằm mục đích răn đe và phòng ngừa chung.
[5] Về hình phạt bổ sung: Quá trình điều tra xác minh xét thấy, bị cáo không có tài sản có giá trị, thu nhập không ổn định, là đối tượng nghiện ma tuý. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung.
[6] Vật chứng vụ án:
Đối với vật chứng gồm: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong là vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy theo điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ Luật Hình sự; điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.
[7] Về nguồn gốc số ma túy thu giữ trong vụ án: Bị cáo khai 0,12 g Heroine bị cáo mua của người thanh niên nam tại Bản N, xã N, huyện S, tỉnh S, nhưng do bị cáo không biết họ tên và địa chỉ cụ thể của người thanh niên này ở đâu nên không có căn cứ để điều tra mở rộng vụ án. Buộc bị cáo Lò Văn H phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tổng khối lượng ma tuý đã thu giữ trong vụ án.
[8] Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên bị cáo được miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự:
Tuyên bố bị cáo Lò Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Xử phạt bị cáo Lò Văn H 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2024 Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.
2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
Tịch thu tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, mặt trước ghi: Vật chứng nhập kho vụ Lò Văn H – Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 11/01/2024. Mặt sau phong bì, dán giấy niêm phong của Công an tỉnh S số: 067062 đè lên các mép dán của phong bì, trên giấy niêm phong có đầy đủ chữ ký, họ tên của các thành phần tham gia niêm phong, người bị bắt và 02 hình dấu tròn đỏ của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện T, tỉnh S. Bên trong có: 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì thư niêm phong vật chứng ban đầu.
(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 18/3/2024 Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an huyện T và Chi cục Thi hành án dân sự huyện C).
3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.
4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 16/4/2024).
Bản án 83/2024/HS-ST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 83/2024/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 16/04/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về