Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 83/2022/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 83/2022/HS-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 84/2022/HSST ngày 25 tháng 02 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 83/2022/QĐXXST - HS ngày 18 tháng 3 năm 2022 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn A - Sinh năm 1993; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản N, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 6/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn G1 (đã chết) và bà Lò C2; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 19/01/2022 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Lò Văn B - Sinh năm 1988; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Bản G, xã M, huyện S, tỉnh Sơn La; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Thái; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 9/12; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Chức vụ đoàn thể, đảng phái: Không; Con ông Lò Văn C và bà Lường Thị H1; Có vợ là Lò Thị P1 và 04 con (con lớn nhất sinh năm 2011, con nhỏ nhất sinh năm 2021); Tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 15/9/2021 cho đến nay có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 20 giờ 00 phút, ngày 14/9/2021 tổ công tác Công an xã M, huyện S làm nhiệm vụ tại bản X, xã M, huyện S phát hiện Lò Văn B có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ tại lòng bàn tay trái của B 01 gói nilon màu xanh, bên trong có chứa 10 viên nén màu hồng, B khai nhận là hồng phiến mua về để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng. Ngoài ra còn tạm giữ 01 xe mô tô BKS 26K4 – 0255.

Sau khi bị bắt B khai nhận số ma túy bị bắt quả tang là của Lò Văn A đưa cho B để B cất giấu mang về cùng nhau sử dụng. Ngày 19/01/2022 Lò Văn A đã đầu thú tại Công an huyện S sau khi được triệu tập đến làm việc nhiều lần.

Ngày 15/9/2021 tại Công an huyện S, tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, tiến hành cân tịnh và trích mẫu giám định, kết quả: 10 viên nén hình tròn màu hồng thu giữ của B có tổng khối lượng là 0,98 gam. Đã trích 02 viên có tổng khối lượng 0,20 gam làm mẫu gửi giám định ký hiệu T; vật chứng còn lại 08 viên có tổng khối lượng 0,78 gam ký hiệu L.

Tại Kết luận giám định số 1543 ngày 20/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận:

“Mẫu gửi giám định ký hiệu T là ma túy; Loại Methamphetamine; khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,20 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,98 gam; loại Methamphetamine”.

Quá trình điều tra các bị cáo khai nhận: Buổi sáng ngày 14/9/2021 Lò Văn B đi sang nhà Lò Thị K2 (là chị dâu của B) cùng trú tại bản N, M, S mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda BKS 26K4 - 0255 để đi phun thuốc trừ sâu tại nương nhãn của B thuộc bản H3, xã M, huyện S. Đến khoảng 18 giờ cùng ngày, thì B gặp Lò Văn A đi bộ ngang qua nương, A đã rủ B góp tiền để mua ma túy để cùng sử dụng, B đồng ý. Do không mang theo tiền nên B bảo A bỏ tiền ra trước để mua ma túy, B sẽ góp cùng với A 100.000đ sau, A nhất trí. Sau đó A đi bộ một mình vào trong bản H3, xã M, huyện S thì gặp một người đàn ông dân tộc Mông không rõ tên, tuổi, địa chỉ đang đứng ở ven đường, A hỏi mua được của người đàn ông này 10 viên Hồng phiến được gói trong mảnh nilon màu xanh với giá 200.000đ. Sau khi mua được ma túy, A quay lại gặp B rồi đưa gói Hồng phiến cho B cầm và bảo B mang về nhà A cất giấu, đợi A đi cắt cỏ về rồi cùng nhau sử dụng ma túy, B nhất trí. Sau đó B cầm gói ma túy ở lòng bàn tay trái, điều khiển xe mô tô BKS 26K4 - 0255 đi về đến khu vực bản X, xã M, huyện S thì bị tổ công tác Công an xã M, huyện S làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang, thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Do có hành vi nêu trên tại bản Cáo trạng số 16/CT-VKSSM ngày 23 tháng 02 năm 2022 Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Sông Mã để xét xử bị cáo Lò Văn A, Lò Văn B về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố Lò Văn A, Lò Văn B phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn B từ 22 - 26 tháng tù; Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật Hình sự xử phạt Lò Văn A từ 24 - 28 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung với các bị cáo. Xử lý vật chứng: tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon, 01 mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu; Miễn án phí hình sự sơ thẩm và tuyên quyền kháng cáo cho các bị cáo.

Tại phiên tòa các bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, không có ý kiến tranh luận gì và khi được nói lời sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của cơ quan, người tiến hành tố tụng: Cơ quan điều tra Công an huyện S, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do vậy các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về các chứng cứ xác định tội danh: Hành vi phạm tội của các bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ sau - Biên bản bắt người phạm tội quả tang lập vào hồi 20 giờ 05 phút, ngày 14/9/2021 đối với Lò Văn B cùng vật chứng bị thu giữ là 10 viên nén màu hồng; Kết luận giám định số 1543 ngày 20/9/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận là ma túy: “…Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,98 gam; loại Methamphetamine”.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về sự việc ngày 14/9/2021 bị cáo Lò Văn A đã rủ bị cáo Lò Văn B góp tiền mỗi người 100.000đ để đi mua hồng phiến về cùng nhau sử dụng, bị cáo A đã ứng ra trước 200.000đ đi mua được 10 viên hồng phiến, sau khi mua được hồng phiến đã đưa cho bị cáo B cất giấu đem về để cả hai cùng sử dụng, khi bị cáo B đang trên đường vận chuyển ma túy về cất giấu, chưa kịp sử dụng thì bị phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng.

- Lời khai nhận tội của các bị cáo về thời gian địa điểm, diễn biến của hành vi phạm tội tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Các bị cáo không có thay đổi, bổ sung gì về lời khai làm thay đổi nội dung vụ án và khẳng định việc khai báo tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa là hoàn toàn tự nguyện và đúng với sự việc đã thực hiện.

Như vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã truy tố bị cáo Lò Văn B, Lò Văn A về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự là đúng quy định của pháp luật.

Từ những căn cứ nêu trên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Ngày 14/9/2021 các bị cáo Lò Văn A, Lò Văn B đã thống nhất góp tiền cùng nhau để đi mua ma túy về mục đích để sử dụng, sau đó bị cáo A đã đi mua được 10 viên hồng phiến, có tổng khối lượng 0,98 gam về đưa cho bị cáo B, khi bị cáo B đang trên đường đem 10 viên hồng phiến về cất giấu để cùng sử dụng với bị cáo A thì bị phát hiện bắt giữ. Hành vi của các bị cáo thực hiện đã phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự, có mức hình phạt từ “01 năm đến 05 năm tù”.

[3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội:

Là vụ án có đồng phạm. Trong đó bị cáo A là người khởi xướng và rủ bị cáo B góp tiền đi mua ma túy, đồng thời là người bỏ tiền ra trước và trực tiếp đi tìm, trao đổi mua được ma túy nên giữ vai trò chính trong vụ án; bị cáo B sau khi tiếp nhận ý chí từ bị cáo A đã nhất trí về việc góp tiền cùng bị cáo A để mua ma túy, sau khi bị cáo A mua được ma túy thì bị cáo B là người trực tiếp vận chuyển ma túy về cất giữ để sử dụng dần nên giữ vai trò đồng phạm giúp sức rất tích cực.

Hành vi phạm tội của các bị cáo thuộc trường hợp nghiêm trọng, các bị cáo nhận thức được việc tàng trữ chất ma tuý là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện tội phạm, hành vi phạm tội đã xâm phạm chế độ độc quyền quản lý các chất ma tuý của Nhà nước, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự trị an ở địa phương, là mầm mống phát sinh các loại tội phạm khác, gây bức xúc trong xã hội.

[4] Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tại phiên toà và tại cơ quan điều tra các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Sau khi hành vi phạm tội bị phát hiện bị cáo B đã tích cực khai báo, khai ra đồng phạm khác trong vụ án là bị cáo A, giúp cơ quan điều tra giải quyết vụ án được triệt để nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo A sau khi biết hành vi phạm tội bị phát hiện đã đến cơ quan cảnh sát điều tra để đầu thú do vậy được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Vì vậy, cần có một mức án tương xứng với tính chất và mức độ của hành vi phạm tội trên cơ sở cân nhắc các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò cùng từng bị cáo trong vụ án, khối lượng ma túy các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội để đưa ra một mức án phù hợp nhất, nhằm giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và cũng đảm bảo biện pháp răn đe, phòng ngừa chung, góp phần thực hiện nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tệ nạn ma tuý tại địa phương.

[5] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo không có tài sản riêng gì có giá trị nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Về các vấn đề khác có liên quan trong vụ án:

Về người đàn ông bị cáo A khai là người đã bán ma túy cho bị cáo, bị cáo khai không biết rõ tên, địa chỉ cụ thể nên CQCSĐT không mở rộng điều tra vụ án là đúng quy định của pháp luật.

Đối với xe mô tô BKS 26K4 - 0255 xác định được chủ sở hữu hợp pháp là chị Lò Thị K2 cho bị cáo B mượn, khi bị cáo B sử dụng xe vào việc phạm tội chị K2 không biết nên Cơ quan CSĐT đã trả lại xe cho chị K2 là có căn cứ chấp nhận.

[7] Về vật chứng vụ án: Đối với số ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định được đựng trong 01 túi nilon, mảnh nilon, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu là những vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành và vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Về án phí: Bị cáo Lò Văn A, Lò Văn B là người đồng bào dân tộc thiểu số sống tại xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và mức hình phạt:

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51;

Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn A phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn A 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/01/2022.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn B phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Xử phạt bị cáo Lò Văn B 22 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/9/2021.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

2. Về vật chứng vụ án: Căn cứ các điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; Các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng Hình sự:

Tịch thu tiêu hủy: 0,78 gam Methamphetamine được đựng trong 01 túi nilon, 01 mảnh nilon màu xanh, 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu. Tất cả được đựng trong 01 phong bì đã dán kín, niêm phong đúng quy định, mặt sau phong bì trên giấy niêm phong có mã số 081809.

Theo Quyết định chuyển vật chứng số 14/QĐ-VKS ngày 23/02/2022 và theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 24/02/2022 giữa Công an và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sông Mã.

3. Về án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo Lò Văn A, Lò Văn B.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 31/3/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 83/2022/HS-ST

Số hiệu:83/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;