Bản án 81/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KHOÁI CHÂU, TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 81/2022/HSST NGÀY 26/09/2022 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay ngày 26 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 75/2022/HSST ngày 08/9/2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 78/2022/HSST-QĐXX ngày 14/9/2022 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn T, sinh năm 1996; Tên gọi khác: Không; Nơi cư trú: thôn V1, xã V2, huyện K, tỉnh Hưng Yên; Quốc tịch: Việt Nam, Dân tộc: Kinh, Tôn giáo: Không; Trình độ văn hoá: 12/12, Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông Phạm Văn B và con bà Lê Thị L1; Anh, chị, em ruột: Có 03 người, bị cáo là con thứ ba. Có vợ là Nguyễn Thị P, sinh năm 1997 và có 01 con sinh năm 2021; T án, T sự: Chưa có. Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 02/6/2022. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ - Công an huyện K. (Có mặt tại phiên tòa).

*/Những người làm chứng :

1. Anh Đỗ Văn K1, sinh năm 1984;

2. Bà Phạm Thị H2; sinh năm 1979.

3. Anh Nguyễn Văn M, sinh năm 1994;

Đều trú tại: thôn V3, thị trấn K, huyện K, tỉnh Hưng Yên (Đều vắng mặt tại phiên tòa).

4. Anh Vũ Hồng L2, sinh năm 1998; Trú tại: thôn D, xã Đ, huyện P, tỉnh Hưng Yên (Vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Do nghiện chất ma túy đá nên khoảng 10 giờ ngày 02/6/2022, Phạm Văn T, điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, biển số 89B1- 976.48 đi tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến khu vực thôn V3, thị trấn K, huyện K, T gặp một người đàn ông lạ mặt khoảng 30 tuổi, có biểu hiện giống người nghiện ma túy nên lại gần và hỏi: “Anh có ma túy bán không?”. Người đàn ông đồng ý bán, nhận số tiền 200.000đ của T đưa cho đồng thời đưa cho T 01 gói nilon màu trắng, viền màu xanh, bên trong có chứa chất dạng tinh thể màu trắng. Do đã từng mua và sử dụng ma túy “đá” nên T biết chất dạng tinh thể màu trắng trong gói nilon là ma túy “đá”. T cầm gói nilon chứa ma túy vừa mua ở lòng bàn tay trái rồi điều khiển xe tìm nơi sử dụng. Khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày, khi đi đến đầu ngõ 535, thôn V3, thị trấn K, huyện K thì T bị lực lượng Công an huyện K phối hợp Công an thị trấn K kiểm tra phát hiện bắt quả tang, thu giữ, niêm phong gói nilon trên để giám định theo quy định. Cùng ngày 02/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K ra lệnh khám xét khẩn cấp nơi ở của T nhưng không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài sản gì liên quan đến ma túy.

Vật chứng, tài sản Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện thu giữ gồm:

01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, màu trắng, biển số 89B1-976.48; 01 gói nilon màu trắng có viền xanh bên trong chứa chất dạng tinh thể màu trắng.

Tại bản Kết luận giám định số 218/KL-KTHS (MT) ngày 05/6/2022 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên, kết luận: Mẫu chất màu trắng dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong, có khối lượng là: 0,387g là ma túy, loại: Methamphetamine.

Đối với chiếc xe mô tô biển số 89B1-976.48 thuộc sở hữu của anh Nguyễn Văn M, sinh năm: 1994 ở thôn V1, xã V2, huyện K. Ngày 02/6/2022, T mượn xe của anh M nói đi có việc, anh M không biết việc T sử dụng xe mô tô để đi mua ma túy. Ngày 21/7/2022, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện đã trả lại chiếc xe trên cho anh M.

Tại bản cáo trạng số 78/CT – VKSKC, ngày 07/9/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS.

Tại phiên toà hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K giữ nguyên Quyết định truy tố đối với bị cáo T và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Đề nghị áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

Đề nghị xử phạt bị cáo T từ 01 năm 01 tháng đến 01 năm 06 tháng tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ, tạm giam 02/06/2022; Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với bị cáo; Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy còn lại sau khi giám định.

- Bị cáo T nhất trí với bản cáo trạng và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K đồng thời thành khẩn khai báo nhận tội, thái độ ăn năn hối cải, được nói lời sau cùng đề nghị Hội đồng xét xử xem xét xử bị cáo ở mức án thấp nhất của khung hình phạt.

- Những người làm chứng là anh Đỗ Văn K1, anh Vũ Hồng L2, anh Nguyễn Văn M và bà Phạm Thị H2 đã được triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, tuy nhiên trong hồ sơ vụ án họ đã có lời khai rõ ràng, việc vắng mặt họ tại phiên tòa hôm nay không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, nên Hội đồng xét xử (HĐXX) căn cứ vào Điều 293 của BLTTHS vẫn tiến hành xét xử vụ án.

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận công khai tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố: Đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS: Quá trình điều tra bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật, không có ai khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về tội danh và điều luật áp dụng: Quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo T đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản đóng, mở niêm phong; Lời khai của những người làm chứng là anh Đỗ Văn K1, anh Nguyễn Văn M, anh Vũ Hồng L2 và bà Phạm Thị H2; Kết luận giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Hưng Yên và toàn bộ các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy, có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 10 giờ 30 phút ngày 02/6/2022, tại ngõ 535, thuộc thôn V3, thị trấn K, huyện K, T đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,387g Methamphetamine với mục đích để sử dụng thì bị phát hiện, bắt quả tang. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố T theo tội danh và điều luật áp dụng trong Cáo trạng số 78/CT- VKSKC, ngày 07/9/2022 là có căn cứ.

[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi phạm tội: Xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo T gây nguy hiểm cho xã hội bởi lẽ: Bị cáo đã vi phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý được BLHS bảo vệ. Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, gây bức xúc trong dư luận quần chúng nhân dân và là một trong những nguyên nhân phát sinh ra nhiều tệ nạn xã hội và các loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an. Bản thân bị cáo T nhận thức rất rõ tác hại của ma tuý, biết được tàng trữ trái phép chất ma tuý là vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn cơn nghiện, bị cáo đã sẵn sàng vi phạm pháp luật, thể hiện sự coi thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước. Hành vi của bị cáo cần phải xử lý nghiêm khắc trước pháp luật.

[4]. Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo:

[4.1]. Về nhân thân: Bị cáo chưa có T án, T sự nhưng ăn chơi, đua đòi dẫn đến mắc nghiện chất ma túy.

[4.2]. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo T không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[4.3]. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, ông nội được tặng thưởng Huân chương kháng chiến hạng nhì, ông ngoại được tặng thưởng Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba, anh trai là Phạm Văn L4 được tặng Huy chương chiến sĩ vẻ vang hạng ba và vợ bị cáo là Nguyễn Thị P có đơn trình bày hoàn cảnh, xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo được chính quyền xác nhận. Nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo thể hiện sự nhân đạo của pháp lụât.

Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo mặc dù chưa có T án, T sự, nhưng bản thân mắc nghiện chất ma túy, lần phạm tội này có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn. Do vậy, cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian, nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật và cũng là đáp ứng nhu cầu phòng ngừa chung trong toàn xã hội.

Từ những phân tích, nhận định nêu trên Hội đồng xét xử thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về tội danh, điều luật áp dụng và mức hình phạt là phù hợp, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn và việc bị cáo tàng trữ trái phép chất ma túy để sử dụng chứ không vì mục đích tư lợi nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng khoản 5 Điều 249 của BLHS, để phạt T đối với bị cáo.

[6]. Về vật chứng trong vụ án: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS;

điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS để xử lý vật chứng như sau:

- Đối với mẫu vật hoàn lại sau giám định là vật chứng trong vụ án được Nhà nước độc quyền quản lý, cấm tàng trữ nên cần tịch thu tiêu hủy 0,380g Methamphetamine hoàn lại sau giám định.

[7]. Về án phí: Buộc bị cáo T phải chịu án phí HSST là 200.000đ theo quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án và khoản 2 Điều 136 của BLTTHS 2015.

[8]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331 và Điều 333 của BLTTHS.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Văn T 01 (Một) năm 01 (Một) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 02/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt T đối với bị cáo T.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 của BLHS; điểm a khoản 2 Điều 106 của BLTTHS.

- Tịch thu tiêu hủy 0,380g Methamphetamine hoàn lại sau giám định. (Tình trạng vật chứng như trong quyết định chuyển vật chứng số: 66/QĐ-VKS - KC ngày 07/9/2022 của VKSND huyện K).

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Phạm Văn T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí HSST.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 và Điều 333 của BLTTHS. Báo cho bị cáo biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (26/9/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

337
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 81/2022/HSST về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:81/2022/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Khoái Châu - Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;