Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 80/2024/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẦN VĂN THỜI, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 80/2024/HS-ST NGÀY 27/08/2024 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 27 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 74/2024/TLST-HS ngày 18 tháng 7 năm 2024, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 64/2024/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Nguyễn Thị H, tên gọi khác: Huyền, sinh năm: 2002, tại xã P.Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Ấp V.X, xã P.Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: Không biết chữ; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn Ngh (đã chết) và bà: Nguyễn Thị H; chồng: Không nhớ tên, đang sinh sống tại Trung Quốc; con: 02 người, đang sinh sống tại Trung Quốc; tiền án: Không; tiền sự: 01, ngày 16/6/2023, bị Tòa án nhân dân huyện T ban hành Quyết định số 29/QĐTA áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào Cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Bị cáo chưa chấp hành quyết định.

Bị bắt quả tang và tạm giữ từ ngày 25/3/2024 đến ngày 03/4/2024, sau đó cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 04/4/2024 cho đến nay.

2. Họ và tên: Nguyễn Minh Ng, sinh năm: 1999, tại xã P.Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau (có mặt).

Nơi đăng ký thường trú và chỗ ở: Ấp T.P, xã P.Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau; nghề nghiệp: Làm biển; trình độ học vấn: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Văn V và bà: Lê Thị H; vợ, con: Chưa có (bị cáo đang sống chung như vợ chồng với bị cáo Nguyễn Thị H); tiền án: 01, Bản án số 48/2021/HS-ST ngày 22/10/2021 của Tòa án nhân dân huyện T xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy. Chấp hành xong hình phạt tù ngày 25/7/2022; tiền sự: Không.

Bị bắt quả tang ngày 25/3/2024, sau đó khởi tố và chuyển sang tạm giam cho đến nay.

Nhân thân: Năm 2021, bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã P.Đ, huyện T, tỉnh Cà Mau áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã thời hạn 03 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 10 giờ ngày 25 tháng 3 năm 2024, H đến nhà rủ Ng đi mua ma túy đá về cùng nhau sử dụng thì Ng đồng ý. Ng điều khiển xe mô tô biển số 67 N6-X chở H từ nhà Ng ở ấp Tân Phú, xã P.Đ, huyện T đến chỗ người tên Đen gần Đồn Biên phòng S.Đ thuộc khóm 1, thị trấn S.Đ, huyện T để mua ma túy. Khi đến nơi, H gặp Đen mua 800.000 đồng ma tuý đá, đối tượng này đưa cho H 01 bao thuốc lá hiệu YETT, bên trong bao thuốc lá có bịch nilong chứa ma tuý. Khi có được ma túy, Ng chở H đến khu vực khóm 7, thị trấn S.Đ để mua đồ ăn, khi đến trước cửa hàng vật liệu xây dựng Điền phát hiện lực lượng tuần tra làm nhiệm vụ nên H ném bỏ bao thuốc lá đang cầm trên tay xuống đất cách chân H khoảng 01 mét thì bị lực lượng chức năng bắt giữ cùng tang vật.

Tài sản, vật thu giữ: 01 phong bì niêm phong vụ số 45/2024 ngày 26/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 vỏ bao thuốc lá bên ngoài có chữ YETT màu xanh; 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có gắn sim số 0946.499.X; 01 xe mô tô đỏ - vàng – đen, biển kiểm soát số 67N6 – X.

Kết luận giám định số: 45/KLMT-KTHS ngày 02/4/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự, Công an tỉnh Sóc Trăng kết luận: Mẫu các hạt tinh thể rắn trong suốt được niêm phong gửi giám định là ma túy, có khối lượng là 0,6798 gam, loại Methamphetamine.

Hoàn lại 0,6209 gam đối tượng giám định.

Tại cáo trạng số: 74/CT-VKS ngày 16/7/2024 của Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau truy tố bị cáo Nguyễn Thị H và Nguyễn Minh Ng về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý" theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T, tỉnh Cà Mau thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vẫn giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Thị H và Nguyễn Minh Ng theo cáo trạng số: 74/CT-VKS ngày 16 tháng 7 năm 2024 và đề nghị:

- Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H và Nguyễn Minh Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Về hình phạt: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s, n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Ng từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47, Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong vụ số 45/2024 ngày 26/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 vỏ bao thuốc lá bên ngoài có chữ YETT màu xanh; trả lại cho bị cáo H 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có gắn sim số 0946.499.X; trả lại cho anh Nguyễn Thanh T 01 xe mô tô đỏ - vàng – đen, biển kiểm soát số 67N6 – X.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong quá trình điều tra, truy tố, các bị cáo không khiếu nại gì về các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên. Hội đồng xét xử xét thấy các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố là hợp pháp, được thực hiện đúng theo trình tự, thủ tục của Bộ luật Tố tụng hình sự quy định.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo hoàn toàn thừa nhận hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Theo đó thể hiện: Khoảng 11 giờ 05 phút ngày 25/3/2024, tại khu vực khóm 7, thị trấn SĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau bị cáo Nguyễn Thị H và Nguyễn Minh Ng đã có hành vi tàng trữ 0,6798 gam, loại Methamphetamine, là chất ma túy nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

[3] Các tài liệu , chưng cư C ơ quan điêu tra thu thâp trong qua trinh điêu tra gồm: Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản về việc thử nước tiểu phát hiện nhanh chất ma túy; Bản tự khai của các bị cáo, lời khai của những người chứng kiến sự việc và các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được phù hợp với kết luận giám định, biên bản hỏi cung bị can, kết luận điều tra. Hành vi của các bị cáo là tàng trữ 0,6798 gam Methamphetamine nhằm mục đích để sử dụng nên hành vi đó cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự, đúng với đề nghị của Kiểm sát viên thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên toà và đúng với Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố.

[4] Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội , đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý. Bản thân các bị cáo là người nghiện ma tuý nên nhận thức rất rõ tác hại của ma tuý ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ, đời sống của con người, gián tiếp gây ra các tệ nạn xã hội, làm suy thoái nòi giống và có thể dẫn đến các căn bệnh truyền nhiễm khác; gây mất an ninh trật tự trên địa bàn thị trấn SĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện tội phạm với lỗi cố ý. Bị cáo H đã từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, bị cáo vẫn chưa chấp hành, hiện bị cáo đang mang thai, lẽ ra bị cáo phải biết cải sửa bản thân, ý thức được ma túy ảnh hưởng rất nhiều đến thai nhi, phải biết lao động chân chính, làm người công dân tốt để lo cho bản thân bị cáo và lo tương lai của con bị cáo và giúp ích cho xã hội. Ngược lại, bị cáo sống buông thả, tiếp tục sa ngã vào tệ nạn xã hội và dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Bị cáo Ng là một thanh niên, từng bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính giáo dục tại xã và bị kết án tù về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, lẽ ra bị cáo phải biết lao động chân chính để tạo lập cuộc sống gia đình, lo cho tương lai bản thân, làm việc có ích cho xã hội nhưng bị cáo không biết kiềm chế, tham gia vào tệ nạn xã hội và dẫn đến thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy, Hội đồng xét xử thấy rằng cần có mức án tương xứng với tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi các bị cáo đã gây ra nhằm giáo dục, răn đe các bị các cáo trở thành người tốt, có ích cho xã hội, đồng thời nhằm cảnh báo, tuyên truyền với những ai không chấp hành quy định của pháp luật, gây tác hại đến sức khỏe con người, làm ảnh hưởng xấu đến xã hội, nhằm phòng ngừa hậu quả có thể xảy ra.

[5] Xét quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, thể hiện sự ăn năn hối cải; bị cáo H khi phạm tội là phụ nữ đang mang thai nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Riêng bị cáo H được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm n khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Song, bên cạnh đó, bị cáo Ng có 01 tiền án chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự. Đồng thời xét nhân thân các bị cáo là có nhân thân xấu. Do đó, xét thấy việc đề nghị của đại diện Viện kiểm sát áp dụng mức án đối với các bị cáo từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù là có cơ sở.

[6] Về vật chứng: Xét thấy phong bì niêm phong vụ số 45/2024 ngày 26/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 vỏ bao thuốc lá bên ngoài có chữ YETT màu xanh kèm theo khối lượng ma túy hoàn lại sau khi trích giám định là vật phạm pháp nên tịch thu tiêu huỷ là phù hợp. Đối với 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có gắn sim số 0946.499.X của bị cáo H không liên quan đến việc phạm tội nên trả lại cho bị cáo là phù hợp. Riêng xe mô tô đỏ - vàng – đen, biển kiểm soát số 67N6 – X bị cáo Ng khai mượn của Nguyễn Thanh T làm phương tiện đi lại, hiện Cơ quan điều tra chưa làm việc được với Nguyễn Thanh T nên cần tiếp tục quản lý, khi nào cơ quan chức năng xác định được chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp đối với xe này thì tiến hành làm thủ tục trả lại cho họ theo quy định.

[7] Đối với người tên Đen bán ma túy cho H, qua xác minh xác định có tên là Thạch Quốc Tr, địa chỉ khóm 1, thị trấn SĐ, huyện T, tỉnh Cà Mau. Hiện Tr đi đâu, làm gì cho rõ nên nên đại diện Viện kiểm sát đề nghị tách ra giao Cơ quan Cảnh sát điều tra, Công an huyện T tiếp tục xác minh, nếu có căn cứ sẽ xử lý sau là phù hợp.

[8] Án phí hình sự sơ thẩm buộc các bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm n, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo H); điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự (đối với bị cáo Ng); Điều 47, Điều 48 của Bộ luật hình sự; căn cứ Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H, tên gọi khác: Huyền và Nguyễn Minh Ng phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 01 năm 05 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày bị cáo vào cơ sở giam giữ chấp hành án, được đối trừ thời hạn tạm giữ từ ngày 25/3/2024 đến ngày 03/4/2024.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Ng 01 năm 08 tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 25/3/2024.

- Tịch thu tiêu huỷ: 01 phong bì niêm phong vụ số 45/2024 ngày 26/3/2024 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sóc Trăng; 01 vỏ bao thuốc lá bên ngoài có chữ YETT màu xanh kèm theo khối lượng ma túy hoàn lại sau khi trích giám định.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Thị H 01 điện thoại di động hiệu OPPO màu đỏ, có gắn sim số 0946.499.X.

- Tiếp tục quản lý xe mô tô đỏ - vàng – đen, biển kiểm soát số 67N6 – X để xác minh làm rõ, nếu có căn cứ thì cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng, tài sản ngày 17/7/2024 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện T).

- Án phí hình sự sơ thẩm buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (chưa nộp).

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

43
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý số 80/2024/HS-ST

Số hiệu:80/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trần Văn Thời - Cà Mau
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/08/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;