Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LẠC SƠN, TỈNH HÒA BÌNH

BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 13/12/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 13 tháng 12 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 98/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2023/QĐXXST-HS ngày 29 tháng 11 năm 2023 đối với bị cáo:

BÙI VĂN C, sinh ngày 27 tháng 02 năm 1965 tại Lạc Sơn - Hòa Bình. Nơi ĐKHKTT/Chỗ ở: Xóm C, xã M, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình; nghề nghiệp: Lao động phổ thông; trình độ văn hoá (học vấn): 10/12; dân tộc: Mường; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Bùi Văn D (đã chết) và bà Bùi Thị D (đã chết); bị cáo có vợ là Bùi Thị N, sinh năm 1967 và 03 con, con lớn nhất sinh năm 1986, con nhỏ nhất sinh năm 1998; Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 1999, bị Toà án nhân dân tỉnh Hoà Bình xử phạt 03 năm tù, cho hưởng án treo về tội Vi phạm các quy định về an toàn giao thông vận tải. Năm 2002, bị Toà án nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Năm 2017, bị Toà án nhân dân huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình xử phạt 30 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 23/5/2023, tạm giam từ ngày 01/6/2023. Có mặt tại phiên tòa.

- Người tham gia tố tụng khác:

Người chứng kiến: Ông Bùi Văn H1, sinh năm 1981. Trú tại: Xóm C, xã M, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Vắng mặt.

Ông Bùi Văn H2, sinh năm 1985. Trú tại: Xóm R, xã M, huyện L, tỉnh Hoà Bình. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 30 phút, ngày 23/5/2023, tại đoạn đường thuộc xóm C, xã M, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình, Bùi Văn C bị Công an huyện Lạc Sơn phối hợp với Công an xã M bắt quả tang Bùi Văn C đang tàng trữ trong lòng bàn tay trái của mình 01 gói giấy bên trong chứa chất ma tuý. Bị cáo C khai ngày 23/5/2023 bị cáo đi xe khách đến huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình tìm mua được từ một người đàn ông không quen biết lượng ma tuý với giá 500.000 đồng để sử dụng cho bản thân. Sau khi mua được ma tuý, bị cáo C về nhà lấy một phần ma tuý sử dụng, phần còn lại chia thành hai gói nhỏ; một gói cất giấu tại chỗ ở, một gói đem theo người và bị bắt quả tang. Khám xét chỗ ở của bị cáo Bùi Văn C, Cơ quan điều tra phát hiện và thu giữ tại vị trí gường ngủ của bị cáo một gói nilon bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng nghi là ma túy.

Tang vật thu giữ được tại giai đoạn điều tra và quá trình xử lý vật chứng: Vật chứng thu giữ gồm toàn bộ số ma túy thu giữ khi bắt quả tang Bùi Văn C và gói nilon bên trong chứa chất bột dạng cục màu thu giữ được khi khám xét chỗ ở của Bùi Văn C. Tất cả số vật chứng trên được niêm phong theo quy định của pháp luật hiện đang được lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình chờ xử lý.

Tại kết luận giám định số 222/KL-KTHS, ngày 31/5/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hoà Bình kết luận: Chất bột dạng cục thu giữ từ bị cáo Bùi Văn C khi bị bắt quả tang, ký hiệu G1 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng 0,11 (Không phẩy mười một) gam. Chất bột dang cục màu trắng thu giữ khi khám xét chỗ ở của Bùi Văn C ký hiệu G2 là ma tuý, loại Heroine, khối lượng 0,28 (Không phẩy hai mươi tám) gam.

Tại Bản cáo trạng số 72/CT-VKS-HS, ngày 06/11/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình đã truy tố bị cáo Bùi Văn C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015. Đối với người đàn ông bán ma túy cho bị cáo tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình, Cơ quan điều tra chưa xác định được nhân dạng, căn cước nên Cáo trạng không đề cập xử lý.

Tại phiên tòa: Kiểm sát viên giữ nguyên nội dung quyết định truy tố, tội danh, điều khoản luật áp dụng đối với bị cáo. Xác định bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người dân tộc thiểu số sinh sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo từ 24 đến 27 tháng tù. Đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo do bị cáo là người không có điều kiện về kinh tế. Về vật chứng của vụ án: đề nghị tịch thu, tiêu hủy phong bì niêm phong bên trong chứa chất ma túy là mẫu vật hoàn lại sau giám định.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của mình; không có ý kiến gì về nội dung cáo trạng phản ánh; không kêu oan. Bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của Điều tra viên, của Cơ quan điều tra, của Kiểm sát viên, Viện Kiểm sát trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự nên xác nhận là hợp pháp. Quá trình điều tra, truy tố, xét xử những người tham gia tố tụng không có khiếu nại, tố cáo hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và của người tiến hành tố tụng.

[2] Về căn cứ xác định tội danh, điều khoản luật áp dụng đối với bị cáo: Ngày 23/5/2023, bị cáo Bùi Văn C đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý; đã để trong lòng bàn tay trái của mình 0,11g Heroine, để tại nơi ở của mình 0,28g Heroine, tổng cộng là 0,39 (Không phẩy ba mươi chín) gam ma tuý, loại Heroine mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma tuý. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ được và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ vụ án. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ nằm trong khoảng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam. Như vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015. Cáo trạng truy tố bị cáo theo tội danh, điều khoản luật áp dụng là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo: Tội phạm mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội; đã xâm phạm đến chế độ quản lý độc quyền các chất gây nghiện của Nhà nước được pháp luật hình sự bảo vệ, gây mất trật tự trị an địa phương. Bản thân bị cáo là người có nhận thức xã hội, có hiểu biết pháp luật, có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự nhưng lại nghiện chất ma túy, không từ bỏ được ma túy. Ma túy là hiểm họa của xã hội, là nguyên nhân gây mất an ninh trật tự xã hội, gây ra các tệ nạn xã hội và là nguồn gốc làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy, biết nhà nước cấm tàng trữ các chất ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện. Do vậy, cần áp dụng đối với bị cáo mức hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân bình thường và để răn đe, phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015. Tại giai đoạn điều tra cũng như tại phiên tòa, bị cáo đều đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự 2015. Ngoài ra, xét bị cáo là người dân tộc thiểu số và sinh sống tại vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên Hội đồng xét xử cân nhắc, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

[5] Về hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người có thu nhập không ổn định, không có tài sản nên không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

[6] Về vật chứng của vụ án: Vật chứng là mẫu vật Heroine hoàn lại sau giám định của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình là các chất ma túy, là vật Nhà nước cấm tàng trữ nên cần tịch thu, tiêu hủy.

[7] Về án phí: Bị cáo là người bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1 Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015;

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Bùi Văn C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Bùi Văn C 24 (Hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn tù tính ngày tạm giữ 23/5/2023.

3. Về xử lý vật chứng: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tịch thu, tiêu hủy: 01 Phong bì niêm phong của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hòa Bình bên trong có chứa chất ma túy còn lại sau giám định.

(Vật chứng hiện đang lưu giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình theo Biên bản giao nhận vật chứng và Phiếu nhập kho số NK 000010 ngày 07/11/2023).

4. Án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Bùi Văn C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ các Điều 331; Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự: Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

15
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2023/HS-ST

Số hiệu:77/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lạc Sơn - Hoà Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/12/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;